phương án cưỡng chế thu hồi đất

Đơn vị thi công tiến hành san lắp mặt bằng dự án Khu công nghiệp Tân Kiều. Theo đó, UBND huyện áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi quyền sử dụng đất đối với hộ Huỳnh Thị Mười đang sử dụng với diện tích 6.647m2 để đơn vị thi công tiến hành việc san lắp mặt - Các văn bản xác nhận theo quy định tại Khoản 2, Điều 15 và Khoản 2, Điều 16 Quy định cơ chế phối hợp của các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; kiểm đếm bắt buộc, cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm Quyết định cưỡng chế thu hồi đất là biện pháp hành chính mang tính cứng rắn được áp dụng đối với người có đất bị thu hồi nhưng từ chối giao đất. Trên thực tế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau và trong những trường hợp cần thiết, bằng quyền lực của mình, Nhà nước vẫn phải ra quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Vay Tiền Online Không Trả Có Sao Không. Khi nào người sử dụng đất bị nhà nước cưỡng chế thu hồi đất? quy trình cưỡng chế thu hồi đất của các cơ quan Nhà nước phải tiến hành như thế nào theo quy định của pháp luật. Mục lục bài viết 1 1. Cưỡng chế thu hồi đất là gì? 2 2. Các trường hợp được phép thu hồi đất theo luật đất đai 3 3. Nguyên tắc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất 4 4. Điều kiện để tiến hành cưỡng chế thu hồi đất 5 5. Trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế thu hồi đất 6 6. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyết định cưỡng chế thu hồi đất Cưỡng chế thu hồi đất là giải pháp cuối cùng để thực hiện việc thu hồi đất khi người có đất bị thu hồi không hợp tác. Là việc sử dụng quyền lực Nhà nước, dựa trên các quy định của pháp luật để thực hiện việc thu hồi đất nhằm các mục đích cộng đồng, an ninh – quốc phòng. Để tránh việc lạm dụng quyền lực Nhà nước trong việc cưỡng chế thu hồi đất, pháp luật Việt Nam đã có những quy định rất rõ về thủ tục cưỡng chế thu hồi đất. 2. Các trường hợp được phép thu hồi đất theo luật đất đai Người sử dụng đất được thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn sử dụng đất, được Nhà nước bảo hộ khi người khác xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp về đất đai của mình. Nhà nước quyết định thu hồi đất của người sử dụng đất phải thuộc một trong các các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 16 Luật đất đai 2013, cụ thể như sau – Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; – Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai; – Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người. Người sử dụng đất có nghĩa vụ giao lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất. Trường hợp người sử dụng đất không chấp hành quy định của pháp luật về việc giao lại đất, Nhà nước sẽ tiến hành cưỡng chế thu hồi đất. 3. Nguyên tắc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất Khi tiến hành cưỡng chế để thu hồi đất, cơ quan tiến hành cưỡng chế phải tuân thủ theo nguyên tắc sau – Việc cưỡng chế phải tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, bảo đảm trật tự, an toàn, đúng quy định của pháp luật; – Thời điểm bắt đầu tiến hành cưỡng chế được thực hiện trong giờ hành chính. Người có quyền sử dụng đất có thể căn cứ vào các nguyên tắc này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi cơ quan tiến hành cưỡng chế không tuân thủ đầy đủ hoặc có hành vi vi phạm quy định trên. 4. Điều kiện để tiến hành cưỡng chế thu hồi đất Cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây – Người có đất thu hồi không chấp hành quyết định thu hồi đất sau khi Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động, thuyết phục; – Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã được niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi; – Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã có hiệu lực thi hành; – Người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất có hiệu lực thi hành. Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối không nhận quyết định cưỡng chế hoặc vắng mặt khi giao quyết định cưỡng chế thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập biên bản. Như vậy, Nhà nước tổ chức cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất khi có đủ 04 điều kiện trên. 5. Trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế thu hồi đất -Thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế Người có thẩm quyền ban hành và thực hiện quyết định cưỡng chế thu hồi đất là Chủ tịch UBND cấp huyện theo khoản 3 Điều 71 Luật Đất đai năm 2013. Khi tiến hành cưỡng chế thu hồi đất, cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền cưỡng chế thu hồi đất phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục sau – Trước khi tiến hành cưỡng chế, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thành lập Ban thực hiện cưỡng chế; – Ban thực hiện cưỡng chế vận động, thuyết phục, đối thoại với người bị cưỡng chế; nếu người bị cưỡng chế chấp hành thì Ban thực hiện cưỡng chế lập biên bản ghi nhận sự chấp hành. Việc bàn giao đất được thực hiện chậm nhất sau 30 ngày kể từ ngày lập biên bản. Trường hợp người bị cưỡng chế không chấp hành quyết định cưỡng chế thì Ban thực hiện cưỡng chế tổ chức thực hiện cưỡng chế; – Ban thực hiện cưỡng chế có quyền buộc người bị cưỡng chế và những người có liên quan phải ra khỏi khu đất cưỡng chế, tự chuyển tài sản ra khỏi khu đất cưỡng chế; nếu không thực hiện thì Ban thực hiện cưỡng chế có trách nhiệm di chuyển người bị cưỡng chế và người có liên quan cùng tài sản ra khỏi khu đất cưỡng chế. Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối nhận tài sản thì Ban thực hiện cưỡng chế phải lập biên bản, tổ chức thực hiện bảo quản tài sản theo quy định của pháp luật và thông báo cho người có tài sản nhận lại tài sản. 6. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyết định cưỡng chế thu hồi đất – UBND cấp huyện chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện việc cưỡng chế, giải quyết khiếu nại; thực hiện phương án tái định cư; bảo đảm điều kiện, phương tiện cần thiết; bố trí kinh phí cưỡng chế thu hồi đất; – Ban thực hiện cưỡng chế chủ trì lập phương án cưỡng chế và dự toán kinh phí; thực hiện cưỡng chế; bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng; Trường hợp trên đất thu hồi có tài sản thì Ban thực hiện cưỡng chế phải bảo quản tài sản; chi phí bảo quản tài sản đó do chủ sở hữu chịu trách nhiệm thanh toán; – Lực lượng Công an bảo vệ trật tự, an toàn trong quá trình tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất; – UBND cấp xã nơi có đất thu hồi thực hiện việc giao, niêm yết công khai quyết định cưỡng chế thu hồi đất; tham gia thực hiện cưỡng chế; phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng niêm phong, di chuyển tài sản của người bị cưỡng chế thu hồi đất; – Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan chịu trách nhiệm phối hợp với Ban thực hiện cưỡng chế thực hiện việc cưỡng chế thu hồi đất khi Ban thực hiện cưỡng chế có yêu cầu; TƯ VẤN TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ Tóm tắt câu hỏi Gia đình tôi có một mảnh đất nằm trong diện quy hoạch bị Nhà nước thu hồi. Do không đồng ý với phương án bồi thường mà Nhà nước đưa ra nên tôi không giao đất. Vào lúc 2 giờ sáng ngày 09/10 vừa qua, tôi đang ngủ thì nghe có tiếng đập cửa. Tôi ra mở cửa thì thấy mấy đồng chí công an và một số người nữa nói là người của xã đến cưỡng chế thu hồi. Họ cho chúng tôi xem quyết định cưỡng chế của chủ tịch UBND huyện tôi, đến khi đó tôi mới được biết đến quyết định này và ngay sau khi cho tôi xem quyết định, họ dùng vũ lực buộc gia đình tôi ra khỏi nhà và vứt hết tài sản của chúng tôi ra ngoài. Xin hỏi, tôi có thể khiếu nại được không? Luật sư tư vấn Xin chào bạn! cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới Luật trực tuyến. Về câu hỏi của bạn, công ty Luật Dương gia xin tư vấn và hướng dẫn cho bạn như sau – Thứ nhất, bạn có nói đến thời điểm khi cơ quan, chủ thể có thẩm quyền đến thu hồi đất nhà bạn bạn mới biết đã có quyết định thu hồi đất, như vậy, trước khi thực hiện việc cưỡng chế, bạn chưa nhận được quyết định thu hồi đất do chủ tịch ủy ban nhân dân huyện bạn ban hành. Điều này vi phạm điều kiện “Người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất có hiệu lực thi hành.” khi thực hiện cưỡng chế được quy định tại điểm d, khoản 2, điều 71, Luật đất đai năm 2013 – Thứ hai, việc cưỡng chế được thực hiện vào lúc 2 giờ sáng tức không trong giờ hành chính, diễn ra vào buổi đêm như vậy không đảm bảo tính công khai, minh bạch. Hành vi này vi phạm nguyên tắc cưỡng chế thu hồi được quy định tại khoản 1 điều 70 và khoản 1 điều 71, Luật đất đai năm 2013 – Thứ ba, cơ quan tiến hành việc thu hồi sau khi cho bạn xem quyết định thu hồi liền dùng vũ lực ép bạn và gia đình ra khỏi nhà mà không vận động, thuyết phục, đối thoại với bạn, điều này vi phạm quy định tại điểm b, khoản 4, điều 71 Luật này về trình tự thực hiện cưỡng chế “Ban thực hiện cưỡng chế vận động, thuyết phục, đối thoại với người bị cưỡng chế; nếu người bị cưỡng chế chấp hành thì Ban thực hiện cưỡng chế lập biên bản ghi nhận sự chấp hành. Việc bàn giao đất được thực hiện chậm nhất sau 30 ngày kể từ ngày lập biên bản. Trường hợp người bị cưỡng chế không chấp hành quyết định cưỡng chế thì Ban thực hiện cưỡng chế tổ chức thực hiện cưỡng chế;” Từ những tình tiết trên trong vụ việc của bạn, bạn hoàn toàn có đủ điều kiện để có thể khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền về những hành vi vi phạm pháp luật trên của các chủ thể có thẩm quyền căn cứ theo quy định tại khoản 1, điều 2, Luật khiếu nại năm 2011 Tóm tắt câu hỏi Tôi nghe nói, khi Nhà nước tiến hành giải tỏa đất thì việc bồi thường đất phải dựa trên sự thỏa thuận của chủ đầu tư với các hộ dân và chính quyền không được cưỡng chế. Có đúng như vậy không? Có trường hợp nào Nhà nước được quyền cưỡng chế thu hồi đất? Luật sư tư vấn Theo Điều 36 Nghị định 181 ngày 29/10/2004 của Chính phủ, Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; đồng thời thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế. Ở diện thứ nhất, Nhà nước thu hồi đất trong những trường hợp như sử dụng đất để xây dựng các công trình công cộng không nhằm mục đích kinh doanh; sử dụng đất để chỉnh trang, phát triển khu đô thị và khu dân cư nông thôn… Ở diện thứ hai, Nhà nước thu hồi đất trong các trường hợp như sử dụng đất để đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao… Ngoài ra, theo khoản 6 Điều 36 Nghị định 181, Nhà nước không thực hiện việc thu hồi đất vào mục đích phát triển kinh tế đối với các dự án không thuộc quy định hoặc trong trường hợp nhà đầu tư nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của người đang sử dụng đất. Nếu dự án mà ông nêu thuộc diện thứ nhất và thứ hai và không thuộc trường hợp nêu tại khoản 6 Điều 36 Nghị định 181 thì Nhà nước có quyền thu hồi đất. Lúc này, việc cưỡng chế thu hồi đất được thực hiện khi có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 32 Nghị định 69 ngày 13/8/2009 của Chính phủ gồm có Đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; Quá 30 ngày kể từ thời điểm phải bàn giao đất mà người có đất bị thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng; Có quyết định cưỡng chế của UBND cấp có thẩm quyền đã có hiệu lực thi hành; Người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế hoặc quyết định này đã được niêm yết tại trụ sở UBND cấp xã nơi có đất thu hồi…. Các văn bản pháp luật sử dụng trong bài viết Luật đất đai năm 2013 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Để đảm bảo tiến độ giải phóng mặt bằng, trong một số trường hợp nhà nước sẽ thực hiện cưỡng chế thu hồi đất. Tuy nhiên, hầu hết người dân đều không nắm rõ quy trình thực hiện biện pháp này dẫn đến những bất lợi không đáng có. Để giúp độc giả hiểu hơn về quy trình cưỡng chế thu hồi đất, Luật Hùng Phúc xin chia sẻ với quý độc giả bài viết dưới đây. Quy Trình Cưỡng Chế Thu Hồi đất Khoản 11 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định về cưỡng chế thu hồi đất như sau Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai. Theo đó, cưỡng chế thu hồi đất là việc là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành khi có quyết định thu hồi đất mà người sử dụng đất không chấp hành. 2. Khi nào bị cưỡng chế thu hồi đất? Căn cứ khoản 2 Điều 71 Luật Đất đai 2013, việc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau – Người có đất thu hồi không chấp hành quyết định thu hồi đất sau khi UBND cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi đã vận động, thuyết phục. – Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã được niêm yết công khai tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi. – Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã có hiệu lực thi hành. – Người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất có hiệu lực thi hành. Như vậy, Nhà nước chỉ được quyền tổ chức cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất khi có đủ 04 điều kiện trên. 3. Nguyên tắc cưỡng chế thu hồi đất Trường hợp người sử dụng đất trong khu vực có đất thu hồi không phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong việc điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm thì UBND cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người sử dụng đất thực hiện. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được vận động, thuyết phục mà người sử dụng đất vẫn không phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định kiểm đếm bắt buộc. Trường hợp người có đất thu hồi không chấp hành thì Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc và tổ chức thực hiện cưỡng chế theo quy định tại Điều 71 Luật Đất đai 2013. Theo Điều 70, khoản 1 Điều 71 Luật Đất đai 2013, việc thực hiện cưỡng chế thu hồi đất phải được thực hiện theo 02 nguyên tắc sau – Việc cưỡng chế phải tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, bảo đảm trật tự, an toàn, đúng quy định của pháp luật; – Thời điểm bắt đầu tiến hành cưỡng chế được thực hiện trong giờ hành chính. 4. Quy trình cưỡng chế thu hồi đất Thẩm quyền thực hiện cưỡng chế thu hồi đất Chủ tịch UBND cấp huyện là người có thẩm quyền ban hành và thực hiện quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế thu hồi đất Theo khoản 4 Điều 71 Luật đất đai 2013, cưỡng chế thu hồi đất phải được tiến hành dựa trên các bước sau đây Bước 1 Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định thành lập Ban thực hiện cưỡng chế Bước 2 Ban thực hiện cưỡng chế vận động, thuyết phục, đối thoại với người bị cưỡng chế – Nếu người bị cưỡng chế chấp hành thì Ban thực hiện cưỡng chế lập biên bản ghi nhận sự chấp hành. Việc bàn giao đất được thực hiện chậm nhất sau 30 ngày kể từ ngày lập biên bản. – Nếu người bị cưỡng chế không chấp hành quyết định cưỡng chế thì tổ chức thực hiện cưỡng chế. Bước 3 Tổ chức thực hiện cưỡng chế – Ban thực hiện cưỡng chế có quyền buộc người bị cưỡng chế và những người có liên quan phải ra khỏi khu đất cưỡng chế, tự chuyển tài sản ra khỏi khu đất cưỡng chế; Nếu không thực hiện thì Ban thực hiện cưỡng chế có trách nhiệm di chuyển người bị cưỡng chế và người có liên quan cùng tài sản ra khỏi khu đất cưỡng chế. – Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối nhận tài sản thì Ban thực hiện cưỡng chế phải lập biên bản, tổ chức thực hiện bảo quản tài sản theo quy định của pháp luật và thông báo cho người có tài sản nhận lại tài sản. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyết định cưỡng chế thu hồi đất Khoản 5 Điều 71 Luật đất đai 2013 quy định về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện quyết định cưỡng chế thu hồi đất cụ thể như sau – UBND cấp huyện chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện việc cưỡng chế, giải quyết khiếu nại liên quan đến việc cưỡng chế theo quy định của pháp luật về khiếu nại; + Thực hiện phương án tái định cư trước khi thực hiện cưỡng chế; bảo đảm điều kiện, phương tiện cần thiết phục vụ cho việc cưỡng chế; + Bố trí kinh phí cưỡng chế thu hồi đất; – Ban thực hiện cưỡng chế có trách nhiệm chủ trì lập phương án cưỡng chế và dự toán kinh phí cho hoạt động cưỡng chế trình UBND cấp có thẩm quyền phê duyệt; + Thực hiện cưỡng chế theo phương án đã được phê duyệt; + Bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng; Trường hợp trên đất thu hồi có tài sản thì Ban thực hiện cưỡng chế phải bảo quản tài sản. Đồng thời, chi phí bảo quản tài sản đó do chủ sở hữu chịu trách nhiệm thanh toán; – Lực lượng Công an có trách nhiệm bảo vệ trật tự, an toàn trong quá trình tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất; – UBND cấp xã nơi có đất thu hồi có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, đơn vị có liên quan tổ chức thực hiện việc giao, niêm yết công khai quyết định cưỡng chế thu hồi đất; + Tham gia thực hiện cưỡng chế; + Phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng niêm phong, di chuyển tài sản của người bị cưỡng chế thu hồi đất; – Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan chịu trách nhiệm phối hợp với Ban thực hiện cưỡng chế thực hiện việc cưỡng chế thu hồi đất khi Ban thực hiện cưỡng chế có yêu cầu. Trên đây là một số quy định pháp luật về cưỡng chế thu hồi đất. Cảm ơn quý độc giả đã quan tâm theo dõi. Mọi thắc mắc về trình tự, thủ tục thu hồi đất quý khách vui lòng liên hệ hotline 0984 62 4444 để được tiếp nhận tư vấn pháp luật chuyên sâu. Mọi thắc mắc cần giải đáp, Quý khách vui lòng liên hệ Hotline 0984 62 4444 để được tư vấn chi tiết! Theo dõi Luật Hùng Phúc trên TẠI ĐÂY Xem thêm Những trường hợp phải thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp Thẩm quyền thu hồi đất theo quy định của pháp luật Những trường hợp bị từ chối công chứng di chúc nhà đất, quyền sử dụng đất Đất thương mại dịch vụ có thời hạn sử dụng là bao lâu? Các trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất không phải nộp tiền Sớm hoàn thành số hóa cơ sở dữ liệu đất đai Sáng 9/6, trong phiên thảo luận tại Tổ 2 về dự thảo Luật Đất đai sửa đổi, đại biểu Văn Thị Bạch Tuyết TP Hồ Chí Minh nêu thực trạng, có một số loại đất hiện nay không được quy định trong Luật đất đai nhưng lại được quy định ở những luật khác, gây ảnh hưởng rất lớn đến người dân trong thời gian vừa qua. Thí dụ như các loại đất hỗn hợp, đất khu dân cư xây dựng mới… ở một số khu vực đô thị sẽ khó khăn vì cơ sở để chuyển mục đích sử dụng đất quy định ràng buộc theo Luật đất đai nhưng nếu mà làm theo Luật Quy hoạch thì lại có nhiều loại đất khác, gây lúng túng cho cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương. Đại biểu Văn Thị Bạch Tuyết TP Hồ Chí Minh. Ảnh THỦY NGUYÊN Vì vậy, đại biểu kiến nghị dự án Luật đất đai sửa đổi cần có các quy định rõ việc phân loại các loại đất và sử dụng phân loại đất này để làm cơ sở khi lập quy hoạch sử dụng đất theo Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Kinh doanh bất động sản để tránh mâu thuẫn, chồng chéo và không giải quyết được nhu cầu của người dân. Bên cạnh đó, đại biểu cũng bày tỏ ủng hộ phương án không ban hành bảng giá đất hằng năm. Chính quyền địa phương sẽ cập nhật kịp thời các biến động ở những cái khu vực có biến động lớn, còn lại ở những khu vực không có biến động thì không cần phải lập bảng giá đất này. Theo đại biểu, nếu như chính quyền địa phương ban hành chậm sẽ ảnh hưởng đến người dân có nhu cầu thực hiện các thủ tục liên quan đến bảng giá đất. Về phương pháp định giá đất theo yêu cầu của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cần phải bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư, đại biểu Văn Thị Bạch Tuyết cho rằng để bảo đảm nguyên tắc này rất khó. “Hiện nay quy định của luật hiện hành tính theo nguyên tắc giá thị trường mà còn gặp khó khăn trong thực hiện, có nghĩa là chỉ riêng cơ sở để xác định giá đất mà còn khó khăn, bây giờ đơn vị tư vấn và Hội đồng thẩm định giá đất còn phải vừa xác định giá đất và vừa phải cân đối giữa lợi ích của Nhà nước, của nhà đầu tư, của người dân nữa thì tôi cũng không biết các đơn vị đó sẽ làm bằng cách nào”, đại biểu nêu băn khoăn. Từ đó, đại biểu cho rằng phải có một cơ sở để tính toán, bởi nếu quy định chặt chẽ nhưng không khả thi sẽ rất khó trong quá trình triển khai thực hiện. Ngoài ra, đại biểu cũng đề xuất trong dự án Luật cần phải quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai, cho rằng, việc số hóa cơ sở dữ liệu đất đai cần phải được triển khai càng sớm càng tốt. “Trong các phiên thảo luận tại TP Hồ Chí Minh, cũng có nhiều đơn vị đề nghị nếu trong bối cảnh ngân sách khó khăn thì kiến nghị với Chính phủ dành một phần nguồn thu từ tiền sử dụng đất để làm cái công tác này và phải được làm thường xuyên, liên tục và càng nhanh càng tốt”, đại biểu nêu kiến nghị. Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất kịp thời Đại biểu Nguyễn Thị Lệ TP Hồ Chí Minh. Ảnh THỦY NGUYÊN Góp ý hoàn thiện dự thảo Luật, đại biểu Nguyễn Thị Lệ TP Hồ Chí Minh nêu rõ, qua thực tế cho thấy, việc rà soát quy hoạch sử dụng đất nếu được thực hiện 5 năm 1 lần sẽ không phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội ở những vùng kinh tế biến động mạnh mẽ. Do đó, đại biểu đề nghị xem xét áp dụng linh hoạt về thời hạn, định kỳ rà soát phù hợp với từng vùng của địa phương. Về thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đại biểu cho rằng dự thảo Luật cũng đã quy định rất cụ thể các trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế xã-hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng và quy định rõ nội hàm, điều kiện, tiêu chí của các dự án này. Đồng thời, Chương 7 dự thảo Luật cũng đã điều chỉnh cụ thể hơn về các chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để sau khi thu hồi đất thì người dân có đất bị thu hồi phải có chỗ ở, bảo đảm cuộc sống bằng hoặc tốt hơn, thực hiện có hiệu quả việc đào tạo nghề, tạo việc làm, tổ chức lại sản xuất, ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi. Theo đại biểu, những nội dung này đã thể hiện đầy đủ tinh thần của Nghị quyết 18 theo hướng có lợi nhất cho người sử dụng đất. Rõ ràng, nghĩa vụ của chính quyền là phải tạo điều kiện cho người dân trong diện thu hồi đất có cuộc sống bằng, thậm chí là tốt hơn ở nơi ở cũ, đại biểu nhấn mạnh. Từ đó, đại biểu đề nghị bổ sung thêm quy định đối với trường hợp thu hồi đất xây dựng hạ tầng cho người lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu tập trung người lao động cần thể hiện rõ điều kiện bao gồm xây dựng cả về vật chất và tinh thần, chứ không chỉ quy định đơn thuần là xây nhà, vì hiện nay đời sống tinh thần của người lao động ở các khu vực trên hầu hết còn hạn chế. Quang cảnh phiên thảo luận tại Tổ 2. Ảnh THỦY NGUYÊN Ngoài ra, đại biểu cũng cho rằng cần tạo điều kiện cho người bị thu hồi đất tham gia ngay từ giai đoạn ban đầu trong quá trình xây dựng phương án bồi thường. Trong trường hợp tỷ lệ người dân không đồng tình cao, chẳng hạn từ 10% trở lên, đại biểu đề nghị phải giải trình thay đổi phương án. Dự thảo Luật cũng cần có quy định cụ thể về vấn đề này để bảo đảm pháp luật được triển khai thuận lợi trong điều kiện có vấn đề phát sinh. Đại biểu cũng đề nghị dự án Luật cần làm rõ, cụ thể hơn quy định về áp dụng nguyên tắc “đồng thuận tương đối”. Đại biểu cho rằng, cơ quan soạn thảo đã nhận thức được rằng tỷ lệ thu được mức đồng thuận từ toàn bộ người dân có đất bị thu hồi là không hề cao, bởi nếu đồng thuận thì sẽ không có chuyện phải đi vận động, thuyết phục hay phải tiến hành cưỡng chế. Do đó, đại biểu đề nghị cần phải quy định nguyên tắc “đồng thuận tương đối” vào dự thảo Luật, cụ thể chỉ cần 80% hoặc 90% chấp thuận phương án thì có thể tiến hành cưỡng chế đối với những trường hợp không đồng ý, không thể chỉ vì sự phản đối thiểu số mà phải chậm dự án, thậm chí có những trường hợp phải tạm dừng. Tránh tiêu cực trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất Đại biểu Nguyễn Minh Đức TP Hồ Chí Minh. Ảnh THỦY NGUYÊN Góp ý vào dự thảo Luật, đại biểu Nguyễn Minh Đức TP Hồ Chí Minh cho rằng, dự thảo đã quy định về vấn đề trách nhiệm của Nhà nước trong việc là cung cấp các thông tin về đất đai, nhưng trừ những trường hợp liên quan đến bí mật nhà nước. Đại biểu cho rằng, nếu có một số nhà đầu tư bất động sản có thể làm cách nào đó tiếp cận được các thông tin này, và bắt đầu thực hiện chiến lược đầu cơ đất, dẫn đến người dân có thể bán đất giá rẻ trước khi được tiếp cận các thông tin về quy hoạch, và vô hình trung làm lợi cho những đối tượng đầu cơ. Do đó, đại biểu kiến nghị phải có những quy định chặt chẽ nhất, có văn bản hướng dẫn về việc không được lợi dụng các quy định của Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước để dẫn đến thiếu minh bạch các thông tin về đất đai, gây thiệt thòi cho những người sử dụng đất. Ngoài ra, những quy định về các hình thức BT góp vốn và chuyển giao cũng phải hết sức chặt chẽ và giới hạn các đối tượng để không bị thất thu đất. Đại biểu nêu thực tế thời gian qua, có các dự án thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh và lợi ích công cộng, nhưng một thời gian sau khi thu hồi chưa triển khai dự án thì lại thay đổi mục đích sử dụng đất. “Có thực trạng thu hồi đất để xây dựng khu vui chơi giải trí chẳng hạn nhưng lại do một quy định nào đó, hoặc do yêu cầu của tỉnh, thành phố đó thì lại chuyển sang thành trung tâm thương mại kết hợp với nhà ở và dẫn đến việc là sự chênh lệch địa tô rất lớn sau khi chuyển đổi mục đích sang đất trung tâm thương mại kết hợp với dịch vụ, nhà thương mại và cuối cùng bán với giá rất cao. Trong khi đó, giá đền bù cho những người dân bị thu hồi đất rất thấp. Chính vì thế dẫn đến tranh chấp đất đai và khiếu kiện kéo dài”, đại biểu nêu rõ. Do đó, trong dự thảo Luật, đại biểu cho rằng vấn đề này cần phải được “trói” bằng một quy định rất rõ tại Điều 12, đó là các hành vi bị cấm, trong đó phải quy định rõ thu hồi đất với mục đích quốc phòng, an ninh nhưng phải nghiêm cấm không được chuyển đổi sang các mục đích sử dụng đất khác.

phương án cưỡng chế thu hồi đất