phương thức trần thuật

Đổi mới phương thức trần thuật. Tiểu thuyết của Đoàn Minh Phượng thường được trần thuật bằng nhịp điệu chậm. Nhà văn đã sử dụng đặc biệt hiệu quả thủ pháp gián cách, đẩy hiện thực vào những vùng mù mịt của vô thức, tạo nên sự đan bện thực - ảo Tuần 23 - Tiết 89 Ngày soạn:. Ngày dạy:. CÂU TRẦN THUẬT A.MỤC TIÊU 1.Kiến thức:- HS nắm được đặc điểm hình thức và chức năng của câu trần thuật. - Học sinh hiểu phân biệt của câu trần thuật với các kiểu câu khác. 2. Kĩ năng: - Rèn cho học sinh kĩ năng nhận biết câu trần thuật trong các văn TÓM TẮT. Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu phương thức trần thuật chủ quan trong truyện ngắn thuộc khuynh hướng yêu nước ở đô thị miền Nam giai đoạn 1965-1975. Đây là phương thức trần thuật chiếm tỉ lệ khá lớn, cơ cấu khá đa dạng và góp phần quan trọng vào Vay Tiền Online Không Trả Có Sao Không. Từ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật. Trong tác phẩm tự sự, trần thuật là thành phần lời của tác giả, của người trần thuật…1. Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ rõ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn. Khảo sát ngôn ngữ trần thuật đặc biệt là những tính chất thường gặp của ngôn ngữ truyện ngắn hiện đại trong lời người trần thuật chúng tôi hi vọng sẽ góp phần nhận diện những đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ truyện ngắn đương đại. 1. Tính chất hiện đại trong ngôn ngữ trần thuật Thu hẹp khoảng cách giữa truyện kể và những “chuyện” của hiện thực, ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn đương đại trở nên gần với ngôn ngữ đời sống hơn bao giờ hết. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn không còn là lời nói quyền uy, cao đạo. Bên cạnh khẩu ngữ trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh có thứ ngôn ngữ vỉa hè ở tác phẩm Phạm Thị Hoài. Có lời người trần thuật dân dã trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh đi năm lần bảy lượt, mời mẻ bát gẫy đũa…, Nguyễn Khải cười thắt ruột, ăn nói quá quân trộm cướp…, Bão Vũ nằm co tiểu sànhkhihết phim.... Có kiểu phát ngôn trần trụi, không gọt dũa của thứ ngôn ngữ “chợ búa” ở Người hùng trường làng Tạ Nguyên Thọ, Không có vua Nguyễn Huy Thiệp, Dạo đó thời chiến tranh Lê Minh Khuê… Trong một số tác phẩm, những tiếng lóng, những từ ngữ tục, những câu chửi thề… được người trần thuật sử dụng khá thường xuyên. Tuy thế, việc vận dụng thích hợp mảng ngôn từ ít có giá trị thẩm mĩ tự thân này, trong một chừng mực nhất định, vẫn có thể nâng cao hiệu quả trần thuật. Nếu trước đây thật khó hình dung cách nói không có trật tự trên dưới của những người tham gia giao tiếp, thì trong truyện ngắn đương đại, kiểu nói “xấc xược” của lớp trẻ không còn quá lạ tai. Để phê phán một mảng xã hội bộn bề, mọi chuẩn mực đạo đức bị đảo lộn, nhiều cây bút đã không ngại sử dụng thứ ngôn ngữ trần thuật “thiếu văn hóa”. Ở Làng xi măng Lê Minh Khuê, giả sử không có lời chú thích của người trần thuật, hẳn không nhiều độc giả “dịch” được bức điện tín Bà mõm, Thối rồi. Về ngay! bà ốm, mất rồi, về ngay. Kiểu thông báo có tính chất mệnh lệnh với ngôn từ ít trang trọng vẫn có thể là lời của con cái dành cho bậc sinh thành Bao giờ ổn định con sẽ “cẩu” mẹ ra khỏi cái “làng Vũ Đại” Gió đồng se sắt – Đỗ Tiến Thụy. Đoạn văn sau đây trong Đại hùng kê Hòa Vang là bằng chứng của một thứ ngôn ngữ giao tiếp đáng kinh hãi xuất hiện đậm đặc trong truyện ngắn hôm nay Phéng mẹ nó một nhát với cái lão “hâm đơ” viêm màng túi mãn tính cùng đời ấy cho xong phắt đi… Chị mới sắp bốn mươi cái lơ thơ tơ liễu buông mành, sợ gì?… phây phây lắm, ngọt bột canh Ajinô Môtô lắm… Có một sự đối nghịch rõ rệt nếu soi xét bằng con mắt thực dụng giữa lão chồng hâm đơ và người vợ còn ngọt bột canh Ajinô Môtô lắm. Lời khuyên như thuyết phục hơn nhờ ngôn ngữ phố phường thời hiện đại. Trong hai thập niên trở lại đây, sự bùng nổ thông tin đã tác động đến ngôn ngữ đời sống và để lại dấu ấn khá rõ ở ngôn ngữ trần thuật. Từ ngữ chuyên môn trở nên phổ biến các thuật ngữ y học, tên các loại bệnh mới HIV-AIDS, viêm não Nhật Bản, sarc, dịch cúm gia cầm…; các khái niệm kinh tế tiền tệ công ty cổ phần, thị trường chứng khoán, cổ phiếu…, các ngôn từ đặc trưng thời đại kĩ thuật số, công nghệ thông tin thư điện tử, chat, truyền hình cáp, nối mạng, trực tuyến…. Những từ ngữ vốn chỉ mới xuất hiện gần đây cũng ùa vào tác phẩm cave gái làm tiền, ô-sin người giúp việc, gay người đồng tính, sếp cấp trên, víp nhân vật quan trọng… Ngôn ngữ thời đại a còng được sử dụng như những phương tiện biểu đạt mới. Xuất hiện cả dạng ngôn ngữ không dấu của người trần thuật lồng vào những đối đáp kiểu trò chuyện chat trên mạng internet Tại sao? Tình Yêu – Y Ban. Ưa chuộng tốc độ tinh thần của lối sống hiện đại, ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn sau đổi mới thường ngắn gọn, đơn nghĩa nhưng chứa nhiều thông tin. Chỉ vài dòng phát ngôn, người trần thuật vẫn có thể cung cấp và bình luận nhiều sự kiện đang diễn ra trong đời sống. Chẳng hạn, bằng ngôn ngữ cập nhật lồng vào lời kể chuyện, người trần thuật ẩn tàng trong Cuộn dây Lê Minh Khuê đã tải đến người đọc những vấn đề thời sự Mùa hè năm nay trái đất phập phồng những hiểm họa. Người Ruanđa bắn giết nhau… Người châu Âu chịu cái nóng khủng khiếp… Băng tuyết xuất hiện ở Zimbambuê… Bệnh AIDS lan tràn ở Đông Á… Ngôn ngữ hiện đại đã ùa vào truyện ngắn, chi phối các phát ngôn của người trần thuật. Nói cách khác, thông qua ngôn ngữ trần thuật, truyện ngắn đương đại đã kịp thời tái hiện sinh động bức tranh xã hội hôm nay, từ phương diện lời ăn tiếng nói của con người. 2. Dấu ấn văn hóa vùng miền trong ngôn ngữ trần thuật Chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn sau 1986 bộc lộ khá rõ đặc trưng văn hóa vùng miền. Phương ngữ được sử dụng có chủ ý chứ không chỉ thuần túy do chất giọng “bản địa” của nhà văn. Người trần thuật không những “tải” nội dung truyện kể mà còn “chuyển” những giá trị văn hóa nằm sâu dưới lớp ngôn ngữ. Có vẻ đẹp bình dị của vùng sông nước Cửu Long qua bờ kênh, con rạch, những cù lao xanh… Nguyễn Ngọc Tư. Có chất Huế đặc trưng mà độc giả chỉ có thể cảm nhận qua những phát ngôn cụ thể của người trần thuật Trần Thùy Mai. Chất thâm thúy miền Bắc hay kiểu hồn hậu miền đều được bộc lộ rõ nét. Dấu hiệu nhận biết có thể chỉ là những ngôn từ nhân xưng được đưa vào tác phẩm. Đó là cách nói của người miền Trung khi nhân vật lớn tiếng chửi Tổ cha mồ tổ con mô thằng mô độc mồm độc miệng nói con tau chết. Bà Thỏn – Trần Thanh Hà; là lời chào rặt tiếng địa phương được người trần thuật kể lại rõ ràng Họ gặp nhau Chào eng! Chào ả! Ôi cụ! Ôi mự! Nghe rộn rã trên đường Quê hương – Cao Hạnh. Là ngôn ngữ thuần Nam Bộ khi người trần thuật sử dụng lời ăn tiếng nói dân dã, khắc họa cuộc sống xứ sở miệt vườn Sống trong hồn người khác Ngọc Linh, Sông Hậu xuôi về Nguyễn Lập Em, Mùa gió Trần Minh Thuận… Qua ngôn ngữ trần thuật, phong tục tập quán từng miền cũng được thể hiện rõ nét. Có đời sống du mục hay lênh đênh theo gánh hát của người miền trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư Biển người mênh mông, Cánh đồng bất tận. Có nếp sinh hoạt của người Hà Nội trong các khu phố cổ Phố cũ – Nguyễn Văn Thọ… Tuy vậy, thể hiện đậm đặc chất giọng địa phương và tạo thành một dòng văn học vùng miền chỉ có thể là mảng truyện ngắn Nam Bộ. Trong dòng truyện ngắn phương Nam ấy, Nguyễn Ngọc Tư được xem là một tác giả tiêu biểu với nhiều tác phẩm hay Dòng nhớ, Biển người mênh mông, Qua cầu nhớ người, Hiu hiu gió bấc… Đến với văn Ngọc Tư, độc giả có thể hình dung rất rõ về vùng đất Nam Bộ. Từ những mé đìa lục bình, đám trâm bầu, chòm quao, trái giác nấu canh chua bông súng đến cách gọi tên nhân vật anh Hai Nhớ, dì út Thu Lý, dì Tư, út Thà, Sáu Tâm… hay lời ăn tiếng nói thường ngày trời đất, đúng chóc hà, nói gì lãng xẹt vậy ta, nói chơi hoài, như vầy, chút đỉnh… đều gợi lên dáng hình thiên nhiên, con người xứ sở miền Nam. Có thể nói, với ngôn ngữ trần thuật mang đậm dấu ấn văn hóa vùng miền, truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới không những nhiều dáng vẻ mà còn rất gần gũi với đời sống con người. 3. Tính chất đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật Truyện ngắn Việt đương đại không còn mang tính chất một giọng, đơn bè, như các thời kì trước. Ngay trong bản thân các phát ngôn của người trần thuật, cùng lúc có thể có cả lời trực tiếp hay những suy tư gián tiếp của nhân vật. Khảo sát tính chất đối thoại trong ngôn ngữ trần thuật hay lời nửa trực tiếp phát ngôn đồng thời của người trần thuật và nhân vật có thể thấy rõ tính chất đa thanh của ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn thời kì này. * Tính chất đối thoại trong ngôn ngữ trần thuật Đối thoại là một dạng lời phát ngôn trực tiếp, mang tính cá thể hóa cao của nhân vật khi tham gia giao tiếp. Trong truyện ngắn, hình thức đối thoại được sử dụng rộng rãi và có vai trò quan trọng trong việc biểu đạt nội dung. Có kiểu đối thoại theo hình thức phân vai, có kiểu lời thoại được nhấn mạnh nhờ những chỉ dẫn của người trần thuật nhằm giản lược hoạt động giao tiếp… Tuy nhiên, người trần thuật vẫn có thể biến lời thoại của nhân vật thành lời của bản thân. Đây là một dạng phát ngôn đặc biệt, thể hiện tính chất nhiều giọng của ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn đương đại. Ở một số tác phẩm, lời nhân vật không được sắp theo thứ tự đối đáp mà đan xen trong lời người trần thuật, nhất là khi người trần thuật là nhân vật xưng tôi, vừa kể chuyện vừa tham gia giao tiếp. Nghĩa là giữa những lời đối thoại, có khi vẫn có những phát ngôn lạc khỏi giao tiếp – những phát ngôn mang tính độc thoại của người trần thuật. Ẩn trong một vai giao tiếp, người trần thuật không chỉ trực tiếp trao đổi với nhân vật mà còn dễ dàng kể chuyện. Chẳng hạn như cách nói sau trong Người ở làng pháo Nguyễn Khải Bà vợ hỏi, một cân đỗ là bao nhiêu nhỉ, một ông khách vừa cười vừa nói, buôn bán như chị là đoảng, ở nhà quê không biết giá đỗ tương còn biết cái gì, một ngàn sáu bà chủ ạ. Chỉ một câu kể mà có thể chứa cả một đoạn trao đổi giữa hai nhân vật tham gia giao tiếp. Người trần thuật đã lược bỏ hoạt động đối thoại bằng lời chỉ dẫn bà vợ hỏi, ông khách vừa cười vừa nói nhằm tạo những điểm nhấn thông tin, biến lời đối thoại thành lời kể. Lời tác giả, lời người trần thuật, lời nhân vật lẫn vào nhau, tạo nên những tranh cãi, đối đáp. Ở truyện ngắn Huệ lấy chồng kiểu lời người trần thuật đan xen với lời thoại nhân vật cũng được Nguyễn Ngọc Tư sử dụng nhằm làm tăng hiệu quả biểu đạt. Đây là lời kể xen lẫn trong những đối đáp giữa hai nhân vật Huệ và Điềm Huệ cười, người ta vậy, mầy còn nhắc làm chi a. Mà, sao bữa nay nghe gió lạnh quá chừng, gió te tái đưa tới một tiếng gà đang gáy, nghe từng giọt, từng tiếng buồn thỉu b. Bằng cách giữ nguyên lời nói của nhân vật trong câu kể, người trần thuật ở đoạn văn trên đã chuyển từ lời đối thoại sang lời độc thoại. Nếu a là lời kể của người trần thuật mệnh đề Huệ cười mang hàm ý đối thoại hướng tới đối tượng giao tiếp là Điềm mầy còn nhắc làm chi thì b đã nghiêng sang dạng độc thoại có hướng. Vẫn như đang nói với Điềm, song cái cảm giác buồn thỉu bởi gió lạnh, bởi tiếng gà te tái chỉ có thể là của riêng Huệ trước ngày xuất giá, khi bóng dáng người cũ chưa hẳn đã phôi phai… Rõ ràng, kiểu trần thuật “nhiều giọng” đã giúp độc giả thâm nhập sâu hơn vào thế giới nội tâm nhân vật. Sự chuyển đổi từ lời đối thoại sang lời kể đã làm lạ hóa kiểu trần thuật đơn âm, tiến tới một kiểu trần thuật đa giọng điệu. * Lời nửa trực tiếp Nếu lời gián tiếp là lời người trần thuật ngôi ba kể về đối tượng; lời trực tiếp là lời nhân vật được truyền đạt thông qua độc thoại và đối thoại; thì lời nửa trực tiếp là kiểu lời nói kết hợp đồng thời hai hình thức phát ngôn gián tiếp bởi người trần thuật và trực tiếp bởi nhân vật nói trên. Lời nửa trực tiếp là “lời của nhân vật có bề ngoài thuộc về tác giả về mặt chấm câu, ngữ pháp nhưng về nội dung và phong cách lại thuộc về nhân vật”2. Trong truyện kể, ngôn ngữ tác giả chủ yếu lại được thể hiện bởi ngôn ngữ người trần thuật, nên xét từ phương diện trần thuật học, có thể xem lời nửa trực tiếp là lời người trần thuật nhưng mang ngôn ngữ nhân vật xuất phát từ điểm nhìn nhân vật. Đây là kiểu “câu hàm ẩn nhiều chủ thể”, “câu lai ghép”, theo cách gọi của Bakhtin. Một trong những đặc điểm cơ bản của lời nửa trực tiếp là tính song điệu giọng người kể và giọng nhân vật lẫn vào nhau. Đây là kiểu lời nói có sự hòa trộn giữa ngôn ngữ người trần thuật ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật. Đoạn văn sau là một ví dụ Lúc về Diệp ôm vai mẹ, Diệp bảo mớ khô cá sặc rằn này hôm nào mẹ tiễn con đi, mẹ nướng rồi xé trộn xoài sống, con thích món này lắm. Nước chảy mây trôi – Nguyễn Ngọc Tư. Thông điệp Diệp ôm vai mẹ, Diệp bảo thích món cá khô trộn xoài sống bao hàm cả hành động của nhân vật được người trần thuật truyền đạt lại. Lời kể này chứa đựng ngôn ngữ nói biểu cảm của nhân vật nên lời người trần thuật và lời nhân vật hoà vào nhau. Không đơn nghĩa như lời trực tiếp, lời nửa trực tiếp thường mở ra nhiều hướng tiếp nhận, trở thành kiểu lời nói đặc trưng cho ngôn ngữ trần thuật phức hợp, đa thanh. Từ sau 1986, truyện ngắn Việt hay sử dụng kiểu lời nửa trực tiếp để đến gần với cuộc sống đa chiều. Đây là phương thức trần thuật gắn với tư duy lí luận hiện đại, có hiệu quả trong việc khám phá dòng tâm trạng – phương diện bộc lộ rõ nhất tư duy phức hợp của con người. Lời nửa trực tiếp có thể cơi nới khuôn khổ truyện ngắn, giúp độc giả khám phá mạch ngầm văn bản, đi sâu vào tâm trạng, bản thể con người với những hồi cố, tự bạch, dòng ý thức lẫn trong giọng kể khách quan của người trần thuật. Về biển Phan Triều Hải, Bụt mệt Hòa Vang, Qua sông hoa Phạm Trung Khâu… là một số tác phẩm sử dụng đắc địa lời nửa trực tiếp. Đây là một đoạn văn được phát ngôn bởi người trần thuật, nhưng lại khoác lớp ngôn ngữ của nhân vật trong truyện ngắn Phan Triều Hải “Bà lẩm bẩm, “mười ba sao rét thế nhỉ”, rồi bà chợt nhớ phải có một cái gì đó để quên rét. Ừ. Quên rét cũng như quên chồng. Phải có một cái gì đó để vùi đầu vào, để tất cả lẫn lộn lên, để không gì còn định hình được nữa. Lúc ấy là quên”3 Những lá thư mùa đông. Ở đây, giọng người trần thuật và nhân vật đan cài vào nhau đến mức khó phân biệt rạch ròi ở những lời nửa trực tiếp với hai chủ thể phát ngôn đồng thời người trần thuật và nhân vật chủ thể hàm ẩn. Không đồng nhất với độc thoại nội tâm, song phần lớn lời nửa trực tiếp đều gắn với ngôn ngữ độc thoại và dòng tâm tư của nhân vật. Đó là trường hợp lời kể của người trần thuật xen lẫn trong chuỗi độc thoại của nhân vật ở Kịch bản Trần Thanh Hà, Chuyến đi săn cuối cùng Sương Nguyệt Minh, Hạnh Nguyễn Thị Minh Dậu, Con thú Dương Quốc Hải… Dòng tâm trạng nhân vật đan xen trong lời người trần thuật cũng là một biến thái khác của lời nửa trực tiếp. Nó là ý nghĩ mang ngôn ngữ bên trong của nhân vật song tồn tại như những diễn từ của người trần thuật nhân danh nhân vật. Trong Có một thời yêu Vũ Thị Hồng, sau những dẫn dắt của người trần thuật là dòng hồi ức tuôn trào của nhân vật Quá khứ như một cuốn phim quay chậm, dửng dưng, tàn nhẫn diễn ra trong óc người đàn ông a. Tất cả không sót một chút gì b. Bắt đầu từ cái buổi đi lấy gạo đáng nguyền rủa ấy chăng? c. Không, phải bắt đầu từ trận tập kích vào Gò Chùa trước đó khi cả tiểu đội ta bị xóa sổ d… Ta bắt đầu nuôi ý định chạy trốn e… Lời nửa trực tiếp ở câu b, c đã dẫn dắt độc giả từ việc nghe kể a đến việc thâm nhập vào chuỗi độc thoại của nhân vật d,e. Lời người trần thuật ngôi ba khi vừa trực tiếp kể chuyện, vừa để câu chuyện được tự bật lên thông qua dòng ý thức của nhân vật, là dạng ngôn ngữ đặc trưng của lời nửa trực tiếp. Sử dụng đặc biệt thành công lời nửa trực tiếp không thể không nhắc đến cây bút trẻ Nguyễn Ngọc Tư. Từ điểm nhìn nhân vật, mượn ngôn ngữ, giọng điệu nhân vật, người trần thuật trong nhiều tác phẩm của nhà văn nữ này đã duyên dáng kể chuyện với con mắt tinh tường của người trong cuộc. Đó là ngôn ngữ trong trẻo nhưng nhiều suy tư của Diệp ở những độc thoại nội tâm được “thốt lên” bởi người trần thuật Đâu nè, đâu phải muốn là làm, cũng phải suy nghĩ đắn đo dữ lắm. Coi lại, làm gì có chuyện con người được sống hồn nhiên như nước chảy mây trôi? Phải chọn lựa và trả giá chớ… Nước chảy mây trôi. Đó là lời nói đầy yêu thương mà người trần thuật chỉ có thể có được từ ngôn ngữ độc thoại của trái tim người mẹ Có nên nói hay không lời xưa rày má thường dạy thằng con trai lớn, rằng sống trên đời, thấy phải thì làm, mà làm cũng đừng nghĩ sẽ được đáp đền xứng đáng, vì có những thứ quý giá lắm, chẳng gì bù đắp được đâu” Qua cầu nhớ người… Ngôn ngữ trần thuật trở nên giàu sức gợi nhờ những lời nửa trực tiếp. Những câu chuyện đời người trong tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư càng sâu sắc, lan tỏa mãi trong lòng người. Tính chất đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật hôm nay xuất phát từ việc tổ chức đồng thời những tiếng nói khác nhau. Sự xen lẫn của lời thoại nhân vật vào lời kể và đặc biệt là hình thức lời nửa trực tiếp đã góp phần làm mới nghệ thuật kể chuyện, cho thấy ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của các cây bút truyện ngắn đương đại. Xem thêm Một cách tiếp cận truyện ngắn Việt Nam đương đại Trong những nỗ lực cách tân, việc đổi mới ngôn ngữ trần thuật là một thành công không thể phủ nhận của truyện ngắn Việt Nam từ sau 1986. Với cách vận dụng linh hoạt ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ vùng miền; và nhất là với cách tổ chức đồng thời nhiều tiếng nói khác nhau, người trần thuật có vai trò quan trọng trong việc cấu trúc tác phẩm, dẫn dắt mạch truyện. Khảo sát các phát ngôn trong văn bản truyện kể, độc giả có thể phần nào hình dung dược diện mạo của người trần thuật. Hơn thế, thông qua ngôn ngữ trần thuật người đọc còn có thể nhận diện những đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ truyện ngắn hôm nay. Thái Phan Vàng Anh 1 Lại Nguyên Ân 1999, 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr 338. 2 Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi 1999, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG, Hà Nội. 3 Người viết nhấn mạnh. Ngày đăng 11/04/2013, 1030 Đề tài về Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Quốc Thanh CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN Chuyên ngành LÝ LUẬN VĂN HỌC Mã số 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PHÙNG QUÝ NHÂM Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2006 Mục Lục Trang MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài . 1 2. Giới hạn của đề tài . 2 3. Lịch sử vấn đề . 4 4. Phương pháp nghiên cứu .15 5. Những đóng góp của luận văn .16 6. Kết cấu của luận văn 16 Chương 1. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân .17 Về khái niệm cảm hứng .17 Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân 20 Động lực thúc đẩy sáng tác và ngọn nguồn, đối tượng tạo nên cảm hứng trong truyện ngắn của Kim Lân 20 Về cảm hứng phê phán trong truyện ngắn của Kim Lân 21 Cảm hứng yêu thương và trân trọng con người 28 Cảm hứng về những sinh hoạt văn hoá ở vùng thôn quê . 45 Chương 2. Phương thức trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân 62 Các vấn đề về phương thức trần thuật trong loại hình tự sự 62 Phương thức trần thuật khách quan trong truyện ngắn của Kim Lân 64 Kiểu người trần thuậ t lạnh lùng 65 Kiểu trần thuật hoà mình với nhân vật . 72 Phương thức trần thuật khách quan và những truyện ngắn mang dấu ấn tự truyện của Kim Lân . 74 Phương thức trần thuật chủ quan trong truyện ngắn của Kim Lân 79 Kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò người dẫn truyện 80 Kiểu người trần thu ật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là một nhân vật . 85 Chương 3. Cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân 92 Cấu trúc trần thuật trong tác phẩm tự sự . 92 Các dạng cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân . 93 Dạng cấu trúc trần thuật theo trình tự thời gian 94 Dạng cấu trúc trần thuật rẽ ngang lồng ghép nhiều tầng bậc trần thuật, ở nhiều thời đ iểm khác nhau .99 Dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí 105 Dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian 111 Kết luận .116 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1921, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, tỉnh Bắc Ninh. Bởi rất mê tuồng nên nhân vật tuồng Kim Lân đã trở thành bút danh của ông từ những năm bốn mươi của thế kỉ trước. Kim Lân sinh ra ở mảnh đất “đời tạo văn nhân”, “nhân tài nảy nở” nhưng lại không giống như nhiều nhân tài ở mảnh đất này. Ông có một đời sống riêng thua thiệt con một ngườ i vợ thứ ba trong một gia đình bình thường, bị mọi người rẻ rúng . Do điều kiện khó khăn nên Kim Lân chỉ học hết bậc tiểu học. Sau đó làm thợ sơn guốc, sơn bình phong, thợ sơn tranh sơn mài . Kim Lân đến với văn học ban đầu là từ say mê và ham thích. Ông bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của Kim Lân đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắ c chủ nhật. Ông quan niệm viết văn như cách “đòi cho mình một thân phận, một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống bé nhỏ quẩn quanh của quê hương” [54, Kim Lân bắt đầu sự nghiệp bằng truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ đăng trên báo Trung Bắc chủ nhật 1942. Đây là tác phẩm mang tính tự truyện. Trong những năm 1941 đến năm 1944, Kim Lân viết khá đều. Những truy ện ngắn của ông đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật, ông tập trung phản ánh khung cảnh làng quê với cuộc sống và số phận của người nông dân. Những cuộc đời lam lũ, đói nghèo trực tiếp bước vào tác phẩm của ông và những cuộc đời ấy đã toát lên ý nghĩa hiện thực sâu sắc. Một số tác phẩm của ông như Đuổi tà, Con Mã Mái, Ông Cản Ngũ… đi vào đề tài độc đáo tái hiện những sinh hoạt phong phú ở vùng thôn quê. Qua những tác phẩm này, tác giả tập trung biểu hiện vẻ đẹp 2 tâm hồn của người dân quê - những con người cực nhọc nghèo khổ, nhưng vẫn yêu đời, trong sáng và tài hoa. Sau cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục viết về làng quê Việt Nam. Trong những tác phẩm Làng, Vợ nhặt, Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, Người chú dượng . ông tiếp tục viết về những cảnh đời Tội nghiệp, khốn khó và sự đổi đời của người nông dân nhờ cách mạng. Trong những tác phẩ m viết ở giai đoạn này, Kim Lân đi sâu vào thể hiện những thay đổi tình cảm của người nông dân trong cách mạng, kháng chiến, sự đổi đời của họ trong cải cách ruộng đất và những hoạt động cách mạng thầm lặng bình thường nhưng thật đáng quý của họ. Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Trong cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng tháng tám, Kim Lân viết không nhiều nhưng ở giai đ oạn nào ông cũng có tác phẩm hay. Ông là cây bút viết truyện ngắn vững vàng. “Thành công của Kim Lân chủ yếu do năng khiếu bẩm sinh và vốn sống của người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Một lòng đi về với “đất”, với “ thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn” [89, Truyện ngắn Kim Lân hấp dẫn và được các nhà nghiên cứu quan tâm, đề cập đến ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, v ấn đề cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân cần được xem xét ở bình diện rộng và mức độ bao quát hơn để hiểu rõ tài năng và đóng góp của nhà văn. 2. Giới hạn của đề tài Đối tượng khảo sát Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Tác phẩm đã xuất bản - Làng, truyện ngắn, Tạ p chí Văn nghệ, 1948, nhà xuất bản Văn nghệ, Hà Nội, 1955. 3 - Nên vợ nên chồng, tập truyện ngắn, nhà xuất bản Văn nghệ, Hà Nội, 1955. - Ông lão hàng xóm cùng Nguyên Hồng, Nguyễn Văn Bổng, nhà xuất bản Văn nghệ, Hà Nội, 1957. - Anh chàng hiệp sĩ gỗ, nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1958 . - Cô gái công trường, truyện phim, nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1960. - Vợ nhặt, tập truyện ngắn, nhà xuất bản Văn học, Hà nội, 1984. - Ông C ản Ngũ, nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1984. - Tuyển tập Kim Lân, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1996. - Kim Lâm - Tác phẩm chọn lọc, nhà xuất bản Hội nhà văn, 2004. Để phục vụ cho đề tài khoa học, đáng lẽ người viết phải khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Kim Lân nhưng do khó khăn trong việc sưu tập tư liệu, hạn chế về thời gian nên ng ười viết chỉ tập trung khảo sát 28 truyện ngắn từ bốn nguồn tư liệu sau - Truyện Cô Vịa, báo Trung Bắc chủ nhật, số135, ngày 8-11-1942. - Truyện Vợ chồng anh đội trưởng, báo Văn nghệ, số13, 1965. - Tuyển tập Kim Lân, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1996. - Kim Lân - Tác phẩm chọn lọc, nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội, 2004. Bên cạnh việc kh ảo sát 28 truyện ngắn nêu trên, chúng tôi còn tiếp thu một cách chọn lọc những nhận định đánh giá của các công trình nghiên cứu đã có và những ý kiến của chính tác giả để đảm bảo tính khoa học, tính khách quan cho luận văn. Nội dung vấn đề Tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của một tác giả là đề tài gồm nhiều vấn đề. Nhưng do nhu cầu nghiên cứu, nguồn tư liệu, quỹ thờ i gian và những 4 hạn chế nhất định của bản thân, chúng tôi chỉ tập trung vào ba vấn đề cảm hứng chủ đạo, phương thức trần thuật và cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân . 3. Lịch sử vấn đề Phần mở đầu Như đã trình bày ở trên, các công trình nghiên cứu về truyện ngắn của Kim Lân chưa thật nhiều. Các công trình nghiên cứu này có thể chia làm bốn nhóm. Một là, các bài vi ết của nhà nghiên cứu về nội dung, nghệ thuật truyện ngắn Kim Lân. Hai là, một số bài viết về hai tác phẩm Làng, Vợ nhặt giảng dạy ở trường phổ thông. Ba là, các bài viết của Kim Lân nói về những tác phẩm của mình. Bốn là, luận văn nghiên cứu về đặc điểm truyện ngắn Kim Lân. Nhìn chung, các bài nghiên cứu đã đi vào đặc điểm truyện ngắn củ a Kim Lân ở những phương diện và những mức độ khác nhau. Trong phạm vi giới hạn của đề tài, chúng tôi sẽ hệ thống những ý kiến nổi bật, những nhận định quan trọng liên quan đến đề tài. Để hệ thống các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn, chúng tôi phân chia ra các nhóm ý kiến sau Hướng tiếp cận về nội dung Kim Lân đến với văn học bằng sự say mê ham thích và ý chí vượt lên số phận. Ông bước vào đời sống văn học còn bởi sự gặp gỡ tình cờ, gắn bó với nhà văn Nguyên Hồng. Nguyên Hồng - người bạn văn của Kim Lân đã nhận xét về những tác phẩm đầu tay của ông Từ giữa những năm 1943 - 1944 ấy, tôi được đọc mấy truyện của Kim Lân. Thoạt tiên tôi chẳng những không để ý mà còn thấy cái tên Kim Lân chương chướng thế nào ấy… Như ng rồi, chỉ bập vào mấy truyện của anh mà tôi thấy không phải loại ướt át một cách bợm bãi, trái lại nó có cái gì chân chất của đời sống và con người nghèo hèn, khổ đau… [31, 5 Ở lời nhận xét này, nhà văn Nguyên Hồng đã rất chính xác khi đánh giá về phương diện nội dung và mối quan hệ giữa tác phẩm - hiện thực trong văn chương của Kim Lân. Cũng gần với quan điểm của nhà văn Nguyên Hồng, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đưa ra nhận xét Đọc văn xuôi Kim Lân, ta bắt gặp cái thế giới của những người thường dân nghèo khổ vốn là hạng “hạ lưu” ở xã hội cũ Những người nông dân miền xuôi mất nhà mất đất xiêu dạt lên miền ngược, táp vào một xóm chợ bến sông, một góc phố núi hay ven một đồn điền, một xóm trai, tiếp tục vật lộn với miếng sống sơ đẳng hằng ngày. Đã có lúc nhà văn gọi những nhân vật thân thuộc ấy của ngòi bút mình là “ những đầu thừa đuôi thẹo ở khắp xó xỉnh cu ộc sống”. Cách gọi giống như là sự tự mệnh danh đầy đau xót của chính các nhân vật ấy … Mạch kể chuyện của Kim Lân dường như bắt rất nhạy vào những cảnh thương tâm cảnh bỏ nhà xiêu dạt vì công nợ, thuế khoá, cảnh ăn xin, cảnh chết đường chết chợ, cảnh bị áp bức, đoạ đầy… [2, Khẳng định lại điều này, năm 1994 trong bài viết Nghĩ về nghề văn , nhà văn Kim Lân bộc bạch Tôi đến với văn học ban đầu là từ sự say mê ham thích. Những truyện ngắn đầu tay của tôi như Đứa con người vợ lẽ, Người kép già, Cô Vịa là những truyện ngắn viết về đề tài xã hội. Đó là những câu chuyện về bản thân tôi, tâm tư và số phận của tôi cũng nh ư những người gần gũi trong làng xóm của tôi … Tôi viết như một việc được thôi thúc từ bên trong. Những cảm xúc suy tư của tôi đòi hỏi tôi phải viết. Thực chất, viết văn, trước tiên tôi viết về mình [16, … Nói đến tình yêu đất nước, nghe cảm thấy xa xôi, nhưng tình cảm đối với làng thì thật gần gũi, gắn bó. Đối với con người Việt Nam, làng xóm nuôi những con người lớn lên b ằng cả vật chất cũng như tinh thần. 6 Tình yêu của tôi đối với làng cũng như đối với cách mạng là nguồn cảm hứng sâu sắc nhất khi tôi viết Làng [16, Ở những ý kiến trên, Kim Lân khẳng định viết văn đối ông như một sự đòi hỏi cho mình một thân phận, một chỗ đứng trong xã hội. Văn ông là những câu chuyện về bản thân và những người gần gũi trong làng xóm. Nguồn cảm hứng của ông là con người làng quê, quê h ương và cách mạng. Năm 1996 trong lời giới thiệu Tuyển tập Kim Lân, nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên có trích dẫn ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn, Lữ Quốc Văn và Nguyễn Đăng Mạnh Hình như những mẫu người đầu thừa đuôi thẹo ấy đã gửi một đại diện của họ vào văn học và Kim Lân đã làm việc này một cách đàng hoàng chững chạc [54, . Đó là những trang số phận của các đầu thừa đuôi thẹo, được đưa từ các xó xỉnh tối khuất lên mặt trang giấy trắng chất chứa nhân thế, nhân tình hoặc những trang tuy nghiêng về nhiều phía phong tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi lành mạnh…, nhưng vẫn biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của một người nông dân trước cách mạng - những người số ng vất vả, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, thông minh, tài hoa [54, Kim Lân là một nhà tiểu thuyết phong tục hạng nhất của Việt Nam [54, - 19]. Ở ba ý kiến trên, các nhà nghiên cứu đã rất tinh tế khái quát đặc điểm về nội dung trong truyện ngắn của Kim Lân. Từ các ý kiến này, nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên bổ sung và nhấn mạnh Tuy nhiên nếu có dịp đọc lại các tác phẩm của Kim Lân mà chủ yếu Là truyện ngắ n, ta sẽ thấy ông không phải chỉ là đại diện văn học của loại nhân vật đầu thừa, đuôi thẹo; ông còn là đại diện văn học sáng giá của 7 những lớp người tài hoa, bặt thiệp, phong lưu riêng thú… chọi gà, thả chim, đấu võ, đánh vật… [54, Cùng thống nhất với các quan điểm trên, nhà nghiên cứu Hoài Việt đưa ra nhận xét về hai đề tài chính trong truyện ngắn của Kim Lân Chính cái vốn sống phong phú của ông đã dẫn ông tới với hai đề tài chủ yếu trong nghiệp văn của ông - Số phận những người thấp cổ bé họng trong xã hội cũ . - Phong tục tập quán, những thú vui, trò chơi nơi thôn dã [88, Ngoài ý kiến về hai đề tài chủ yếu trong truyện ngắn của Kim Lân, nhà nghiên cứu Hoài Việt còn chỉ ra nguồn gốc thành công của Kim Lân là ở cái tâm và cái tài. Cái tâm của ông là lòng thương xót con người hay con vật, là sự chân thật, thẳng thắn, ghét sự khuất tất, ám muội. Cái “tài là con mắt nhìn, cái óc nghĩ, cây bút viết ra” [88, Năm 2003 trong phần giới thiệu về tác giả Kim Lân, nhà nhiên cứu Tr ần Hữu Tá đưa ra nhận xét Thế giới nghệ thuật của ông chỉ tập trung ở khung cảnh làng quê cùng với cuộc sống, thân phận người nông dân … Những con người của quê hương ông, thân thiết ruột thịt với ông, từ cuộc sống đói nghèo lam lũ trực tiếp bước vào tác phẩm, tự nó toát lên ý nghĩa hiện thực, mặc dù nhà văn chưa thật tự giác về điều đó . Kim Lân viết rất hay về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng”. Đó là những thú chơi lành mạnh mang màu sắc văn hoá truyền thống của người dân quê như đánh vật, nuôi chó săn, gà chọi, thả chim truyện ngắn Kim Lân viết về phong tục Đuổi tà, Đôi chim thành, Con Mã Mái … hấp dẫn không phải chỉ vì đã cung cấp được những trang tri thức về phong tục mà chủ yếu là vì nhà văn đã làm hiển hiện lên được cuộc sống và con người làng quê Việt Nam cổ truyền, tuy [...]... giảng dạy truyện ngắn Kim Lân ở nhà trường phổ thông 6 Kết cấu của luận văn Ngoài phần dẫn nhập, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo luận văn gồm có ba chương Chương 1 Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân Chương 2 Các phương thức trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân Chương 3 Cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân 16 Chương 1 CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA KIM LÂN thành tư tưởng của tác phẩm Cảm hứng chủ đạo được xem là “trung tâm điểm”, là “vương quốc sự thật” của nghệ thuật Cảm hứng chủ đạo không chỉ toát ra từ tác phẩm mà còn xuyên suốt toàn bộ sáng tác của một tác giả Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân Động lực thúc đẩy sáng tác và ngọn nguồn, đối tượng tạo nên cảm hứng trong truyện ngắn của Kim Lân Nhà văn Kim Lân từng kể về đời mình... nghiên cứu về truyện ngắn của ông còn khá ít Luận văn của chúng tôi sẽ đi vào các vấn đề cảm hứng chủ đạo, phương thức trần thuật và cấu trúc trần thuật Dù các vấn đề đặt ra trong luận văn chưa là tổng quát nhưng chúng tôi hi vọng sẽ góp thêm hiểu biết về phong cách nghệ thuật của Kim Lân Từ đó, góp phần khẳng định vị trí của Kim Lân trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại và đóng góp một phần nhỏ vào việc... rãi trong luận văn Chúng tôi sẽ đi từ việc khảo sát phân tích từng truyện ngắn, các yếu tố nổi bật thể hiện cảm hứng và nghệ thuật trần thuật, để từ đó rút ra những nhận xét có tính tổng hợp, khái quát Đồng thời, để triển khai vấn đề một cách khoa học, biện chứng, chúng tôi sẽ đặt đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ với các yếu tố khác của hệ thống để làm rõ cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật. .. Hướng tiếp cận về nghệ thuật Như đã trình bày, các công trình nghiên cứu truyện ngắn của Kim Lân chưa nhiều Đặc điểm các công trình nghiên cứu về nghệ thuật truyện ngắn của Kim Lân cũng chỉ ở mức độ riêng lẻ, chưa tập trung và hệ thống Năm 1986 trong bài Văn xuôi Kim Lân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đưa ra nhận định Có lẽ do số lượng tác phẩm không nhiều nên truyện ngắn Kim Lân cũng không thật... bàn tay nhà nghệ sĩ tài ba Kim Lân đã sắp đặt tạo ra một thứ ngôn từ mang đậm chất “văn xuôi ” Đó là một đoá hoa tạo nên sức hút ban đầu cho các độc giả Đó là phong cách giản dị mà độc đáo của Kim Lân [68, 13 Năm 2005 trong luận văn Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, tác giả Đặng Thị Huy Lam dành hai chương để khảo sát nghệ thuật truyện ngắn của Kim Lân Ở chương Nghệ thuật dựng truyện và xây dựng... đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu cảm hứng chủ đạo của nhà văn trong tác phẩm để tìm hiểu đặc điểm sáng tác của nhà văn ấy “Công việc đầu tiên, nhiệm vụ đầu tiên của người phê bình là giải đoán cảm hứng chủ đạo của tác phẩm” [dẫn theo 20, Về khái niệm cảm hứng chủ đạo, Huỳnh Như Phương đưa ra quan điểm Cảm hứng chủ đạo thấm nhuần vào toàn bộ cấu trúc của tác phẩm, vào thế giới hình tượng, bao... phẩm, Hêghen xem cảm hứng chủ đạo như là “ trung tâm điểm ”, “ vương quốc sự thật” của nghệ thuật Ông cho rằng Cảm hứng chủ đạo là biểu hiện của tâm hồn người nghệ sĩ say mê thâm nhập vào bản chất của đối tượng, trở thành tương ứng với nó, gần 18 như là xuyên suốt vào nó Theo ông, cảm hứng chủ đạo cần được xem như là một sản phẩm của “một tinh thần phong phú và hoàn thiện, một cá tính mà trong đó tất... kiểu truyện trong truyện ngắn của Kim Lân Đặc biệt hơn, tác giả rất sắc sảo khi phát hiện một trong những đặc sắc của văn xuôi Kim Lân là ngôn ngữ “Ngôn ngữ nhân vật có vai trò quyết định trong việc thể hiện những tâm lí cổ truyền của người nông dân” [2, Năm 1994 trong bài Nghĩ về nghề văn , Kim Lân bộc bạch Khi sáng tác truyện ngắn, đối với tôi chi tiết vô cùng quan trọng Trong truyện ngắn. .. Lại Nguyên Ân chia truyện ngắn Kim Lân thành ba loại truyện ngắn tính cách, truyện ngắn tình huống và truyện ngắn ngụ ý Cũng trong bài viết này, nhà nghiên cứu còn đưa ra nhận xét về ngôn ngữ và chất giọng trong văn xuôi Kim Lân 10 Chất giọng thường xuyên trong truyện ngắn của Kim Lân là chất giọng thực sự văn xuôi Nó không thích hướng vào chất trữ tình, không thích nống lên thống thiết Nó thích . trong truyện ngắn của Kim Lân. Chương 3. Cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân. 17 Chương 1 CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG TRUYỆN NGẮN. DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Quốc Thanh CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN KIM - Xem thêm -Xem thêm Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân, Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân, , Lý do chọn đề tài, Hướng tiếp cận về nội dung, Hướng tiếp cận về nghệ thuật, Phương pháp nghiên cứu, Các vấn đề về phương thức trần thuật trong loại hình tự sự, Phương thức trần thuật khách quan trong truyện ngắn của Kim Lân, Cấu trúc trần thuật trong tác phẩm tự sự Các dạng cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân, Những đóng góp của luận văn Lại Ngun Ân 1986, “Văn xi Kim Lân”, Tạp chí Văn học số 6, Viện Lại Ngun Ân 1999, 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Bakhtin M. 1992, Lí luận và thi pháp tiểu thuyết bản dịch của Phạm Vĩnh Bakhtin M. 1998 Những vấn, Nguyễn Văn Dân 1998, Lí luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nguyễn Văn Dân 1999, Nghiên cứu văn học lý luận và ứng dụng, Nxb Đặng Anh Đào 2001, Tài năng và người thưởng thức, Nxb Văn nghệ Lê Tiến Dũng 2003, Giáo trình lý luận văn học phần tác ph, Nguyên Hồng 1978, Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Nxb Tác phẩm Nguyễn Khải 2003, Nghề văn cũng lắm công phu, Nxb Trẻ, Kim Lân 1996 Tuyển tập Kim Lân, Nxb Văn học, Hà Nội., Nguyễn Đăng Mạnh 1983, Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Văn Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên 1986, Các nhà văn nói về văn tập 2, Nxb Nguyễn Đăng Mạnh 1993, Các tác giả văn học Việt Nam tập 2, Nxb Nguyễn Đăng Mạnh 1995, Tổng tập văn học Việt Nam tập 30A, N VIỆN HÀN LÂMKHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAMHỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘITẠ HƯƠNG TRANGPHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮNTHẾ SỰ - ĐỜI TƯ TRONG VĂN HỌCVIỆT NAM TỪ SAU 1986Ngành Văn học Việt NamMã số 9. 22 .01 .21LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌCNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC LÊ QUANG HƯNGHÀ NỘI – 2019LỜI CAM ĐOANTôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kếtquả nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo tính chính xác và khoa học tài liệu tham khảo, trích dẫn đều có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu hoàntoàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu của Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2019Tác giả luận ánTạ Hương TrangLỜI CẢM ƠNLuận án được hoàn thành, tôi muốn bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc, chânthành đến Lê Quang Hưng, người thầy hướng dẫn khoa học tận tình,luôn sẵn sàng chia sẻ quan điểm, gợi mở nhiều ý tưởng hay, mới lạ, giúp tôicó thêm nhiều tri thức lý luận và phương pháp tư duy, làm việc khoa cũng xin được gửi lời cảm ơn đến Ban giám đốc Học viện Khoahọc xã hội, phòng Quản lý Đào tạo, các thầy cô trong khoa Văn học đãthường xuyên động viên, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình nghiên cứucủa được bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu Trường Đại học HảiPhòng, Khoa Ngữ văn – Địa lí nơi tôi công tác đã giúp đỡ tôi rất nhiều về mặtthời gian để tôi hoàn thành chương trình học và luận ơn bố mẹ, những người thân trong gia đình, đồng nghiệp, bạnbè,... đã sẻ chia, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thànhluận Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2018Tác giả luận ánTạ Hương TrangMỤC LỤCMỞ ĐẦU..................................................................................................................... 1Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU......................................... niệm chung về phương thức trần thuật trong truyện ngắn thế sự - đời tư..... hình nghiên cứu phương thức trần thuật trong văn xuôi Việt Nam từ sau1986........................................................................................................................... hình nghiên cứu phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư từsau 1986..................................................................................................................... 26Chương 2 TRUYỆN NGẮN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TRONG SỰ VẬN ĐỘNG,PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ SAU 1986................................ tiền đề cho sự phát triển của truyện ngắn thế sự - đời tư trong văn họcViệt Nam từ sau 1986................................................................................................ quát truyện ngắn thế sự - đời tư trong nền văn xuôi Việt Nam từ sau 198656Chương 3 ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT, TỔ CHỨC TÌNH HUỐNG VÀ KẾTCẤU TRONG TRUYỆN NGẮN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TỪ SAU 1986................... kể và điểm nhìn trần thuật.......................................................................... chức tình huống.............................................................................................. thuật tổ chức kết cấu................................................................................ 101Chương 4 NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT CỦA TRUYỆNNGẮN THẾ SỰ - ĐỜI TƯ TỪ SAU 1986............................................................ ngữ trần thuật........................................................................................... điệu trần thuật......................................................................................... 132KẾT LUẬN............................................................................................................ 148DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Đà CÔNG BỐ CÓ LIÊNQUAN ĐẾN LUẬN ÁN......................................................................................... 151DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 152MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề Trong quan niệm của lí thuyết tự sự học hiện đại thì tiểu thuyết làthể loại tự sự cỡ lớn, có khả năng miêu tả bức tranh hiện thực rộng lớn và sốphận của một hay nhiều người. Trong khi đó, điều làm nên nét khác biệt giữatruyện ngắn với tiểu thuyết hay những thể loại tự sự khác chính là ở chỗ dunglượng ngắn, tập trung miêu tả một sự kiện, một tình huống hoặc một khoảnhkhắc nào đó xảy ra trong cuộc đời của nhân vật. Trong loại hình văn xuôi tựsự, truyện ngắn được đánh giá là một thể loại có tính thích ứng cao với thờiđại nó tồn tại và phát triển. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường nhưngày nay, truyện ngắn phù hợp với thị hiếu của độc giả bận rộn khi họ khôngcó nhiều thời gian dành cho việc nhâm nhi chiêm nghiệm một tác ưu điểm kể trên khiến cho truyện ngắn là một trong những thể loại cóthể đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thời đại đổi mới, của độc giả sau chọn mốc 1986 chúng tôi không chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu tácphẩm mà hơn hết đó là mốc thời gian quan trọng diễn ra Đại hội VI của đầu từ đây văn nghệ thực sự được giải phóng kéo theo sự khai phóng cácthể loại khác về cả nội dung và hình thức biểu hiện. Mặt khác, đây cũng làmốc thời gian ghi nhận những cách tân đáng chú ý của các thể loại văn học,những tác phẩm truyện ngắn thực sự có giá trị cũng bắt đầu ra đời từ xuôi nói chung, truyện ngắn giai đoạn sau năm 1986 nói riêng thựcsự đã tìm được cho mình một hướng đi mới dù đầy chông gai song lại đạtđược những thành tựu đáng ghi nhận. Về nội dung, nó bắt đầu đi sâu vào thếgiới nội tâm của con người để tìm hiểu và khái quát thành tâm lí điển hình củathời đại. Những mảng như chiều sâu tâm linh, cõi vô thức hay sự cô đơn bảnthể, cô đơn nghệ sĩ... đều được nó nghiêm túc khám phá và sáng tạo. Về hìnhthức, khác với quan niệm truyền thống, truyện ngắn sau 1986 không ngừng nỗlực kiếm tìm những phương thức biểu hiện phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của1văn học. Bên cạnh những cây bút vẫn kiên trì cách viết truyện truyền thốngthì một loạt các cây bút với ý thức tự làm mới mãnh liệt đã ra đời nhưNguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương... Ở một phương diện khác, khi lựa chọn đề tài này, chúng tôi căn cứvào chủ đề và cảm hứng của văn xuôi sau 1986 nổi bật lên ba khuynh hướngchính, đó là khuynh hướng sử thi, khuynh hướng thế sự - đời tư và khuynhhướng triết luận. Trong ba khuynh hướng ấy thì khuynh hướng thế sự - đời tưđược đánh giá là khuynh hướng thu hút nhiều người tham gia viết nhất, trởthành niềm say mê hứng khởi sáng tác ở nhiều cây bút truyện ngắn xuất học trước 1975 quan tâm đến nội dung “viết cái gì” của các nhàvăn. Chính vì thế mà sự tỏa bóng của “chủ nghĩa đề tài” khá rộng lớn trongvăn xuôi. Những đề tài như ca ngợi cuộc chiến vĩ đại của dân tộc, những tấmgương người tốt, việc tốt được đề cao còn những đề tài đi sâu vào miêu tả sốphận của cá nhân hay đời sống cá thể riêng biệt thì sẽ bị cấm đoán thậm chínhiều nhà văn bị treo bút trong một thời gian dài vì những gì họ viết ra khôngđúng với tinh thần của thời đại. Song sang đến giai đoạn sau 1986, nhờ lờikêu gọi của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh mà văn học được “cởi trói”. Cảmhứng sử thi tồn tại trong suốt những năm tháng chiến tranh và một vài nămsau đổi mới đã nhường chỗ cho cảm hứng thế sự - đời tư khi con người dầntrở về với cuộc sống thường nhật. Lựa chọn cảm hứng này trong sáng tác, cácnhà văn được mặc sức khám phá thế giới muôn hình muôn vẻ với những nhândạng tồn tại trong hiện thực đó. Mặt khác, nó cũng chi phối đến các phươngdiện khác thuộc trần thuật học trong tác phẩm mà cụ thể là điểm nhìn trầnthuật, tổ chức tình huống, kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu... Có thể thấy đâylà một hướng đi dù không có nhiều cách tân quyết liệt về mặt hình thức nhưngđã khắc tạc trên cây cổ thụ văn chương nỗi đằm sâu của những nhà văn sốngcó trách nhiệm và nặng lòng với đời sống con Nếu như văn học giai đoạn trước năm 1975 quan tâm đến nhà văn2thể hiện nội dung gì trong sáng tác của mình, những nội dung ấy có phù hợpvới lí tưởng của thời đại hay không, có giá trị cổ vũ tinh thần và ý chí của conngười trong thời đại ấy như thế nào... thì giai đoạn từ sau 1986, cái mà vănhọc và công chúng quan tâm là nhà văn - anh đã làm mới “đứa con tinh thần”của mình như thế nào, nói một cách khác là anh đã có thêm tiếng nói, cáchnói gì. Trong xu thế đổi mới, những gì anh viết ra nếu bị coi là cũ kĩ sẽ khôngcó chỗ đứng trong lòng bạn đọc, vì thế nỗ lực cách tân và làm mới trở thànhtuyên ngôn trong sáng tác của họ. Theo đó, nghệ thuật trần thuật trong tácphẩm được đề cao hơn bao giờ hết, nó là “sự trình bày liên tục bằng lời văncác chi tiết, sự kiện, tình tiết, quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật mộtcách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách nhìn, cách cảm nhất định” Trần ĐìnhSử. Trong cấu trúc tác phẩm văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng thìtrần thuật bao gồm các yếu tố cấu thành nên một tác phẩm hoàn chỉnh, đồngthời cũng tạo nên một “chất” khác lạ để phân biệt sáng tác của người này vớingười khác, góp phần tạo nên cái “tầm” của nhà văn. Nhà văn nếu lựa chọnhình thức trần thuật phù hợp sẽ đem lại hiệu quả trong cách truyền tải nộidung, tư tưởng của tác những lí do trên, tìm hiểu Phương thức trần thuật của truyện ngắnthế sự - đời tư trong văn học Việt Nam từ sau 1986 chính là một cách để phântích, đánh giá đầy đủ những đặc điểm, thành tựu của truyện ngắn Việt Namthời kì đổi mới trên các phương diện đối tượng, nội dung phản ánh và hìnhthức nghệ thuật. Bên cạnh đó chúng tôi mong muốn kết quả nghiên cứu củaluận án này sẽ là những tài liệu tham khảo có giá trị thực tiễn đối với công tácnghiên cứu và giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng và phổ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận Mục đích nghiên cứuTìm hiểu, đánh giá đặc điểm phương thức trần thuật của truyện ngắnthế sự - đời tư trong văn học Việt Nam từ sau 1986 để khẳng định sự thống3nhất biện chứng giữa đối tượng, nội dung biểu hiện với phương thức thể hiệntrong thể loại truyện ngắn, khẳng định rõ thêm thành tựu của văn học ViệtNam thời kì đổi Nhiệm vụ nghiên cứuĐể đạt được mục đích trên, luận án thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau- Đưa ra quan niệm về truyện ngắn thế sự - đời tư từ góc nhìn của líthuyết tự sự học hiện đại, từ sự khu biệt giữa truyện ngắn thế sự - đời tư vớicác khuynh hướng truyện ngắn khác như truyện ngắn theo khuynh hướng sửthi, truyện ngắn theo khuynh hướng triết Chỉ ra những cơ sở cho sự phát triển của truyện ngắn theo khuynhhướng thế sự - đời tư, tái hiện diện mạo của truyện ngắn theo khuynh hướngnày trong văn học Việt Nam từ sau Phân tích những đặc điểm của phương thức trần thuật qua các phươngdiện như điểm nhìn trần thuật, cách tổ chức tình huống, kết Phân tích những đặc điểm của phương thức trần thuật qua ngôn ngữvà giọng điệu trần Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận Đối tượng nghiên cứuLuận án của chúng tôi tập trung nghiên cứu thể loại truyện ngắn trongvăn học Việt Nam hiện đại từ sau 1986 đến nay. Từ những khảo sát trênthực tế tác phẩm, chúng tôi phân loại truyện ngắn thành 3 khuynh hướng sửthi, thế sự - đời tư và triết luận. Cảm hứng sáng tác chủ đạo là tiêu chí đểchúng tôi phân loại truyện ngắn thành các khuynh hướng như vậy. Trong đóchúng tôi đặc biệt quan tâm tìm hiểu sự vận động và phát triển của truyệnngắn thế sự - đời tư, lí giải những đặc điểm riêng của thể tài truyện ngắn nàytrên cơ sở những lí thuyết chung về thể loại. Luận án tập trung vào phươngthức trần thuật bao gồm điểm nhìn trần thuật, tổ chức tình huống, kết cấu,ngôn ngữ và giọng điệu trần Phạm vi nghiên cứuThực hiện đề tài này, chúng tôi dành sự quan tâm đến một số tập truyệnngắn, tuyển tập truyện ngắn đã được xuất bản của các nhà văn tiêu biểu nhưNguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư,Nguyễn Thị Thu Huệ... và một số cây bút trẻ có truyện ngắn đạt giải từ sau1986 đến nay đã được in trong các tuyển ra, trong quá trình thực hiện đề tài, để thấy được sự vận động vàphát triểnphát triển của nó trong mấy mươi Phương pháp thống kê - phân loạiPhương pháp này được sử dụng trong quá trình khảo sát các tác phẩmtruyện ngắn thế sự - đời tư tiêu biểu từ sau 1986 nhằm có những cứ liệu xácđáng cho các luận Đóng góp mới về khoa học của luận án- Luận án cung cấp cái nhìn hệ thống về truyện ngắn Việt Nam giaiđoạn sau 1986 trong bước chuyển của lịch sử văn học, góp phần khẳng địnhmối quan hệ biện chứng giữa nội dung phản ánh, kiểu nhân vật với phươngthức trần thuật trong thể loại Luận án là công trình đầu tiên tìm hiểu và phân tích một cách tươngđối toàn diện, có hệ thống về đặc điểm phương thức trần thuật của truyệnngắn viết theo khuynh hướng thế sự - đời tư trong văn xuôi Việt Nam từsau Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận Ý nghĩa lí luậnBằng việc phân tích phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đờitư trong văn học Việt Nam từ sau 1986, luận án góp phần làm sáng tỏ ý nghĩacủa lí thuyết tự sự học hiện về mặt cấu trúc loại hình, từ việc phân tích, đánh giá truyện ngắnthế sự - đời tư luận án góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa quan niệmnghệ thuật về hiện thực, con người với các phương diện thuộc thuộc phươngthức trần thuật của thể Ý nghĩa thực tiễnVới đề tài này, luận án đã khảo sát, khái quát, tổng kết bước đầu cáckhuynh hướng truyện ngắn Việt Nam từ sau 1986 trong đó nổi bật là khuynhhướng thế sự - đời tư. Từ đó, làm sáng tỏ sự vận động, phát triển, thành tựu vàhạn chế của thể loại truyện ngắn trong văn học Việt Nam hiện cạnh đó, luận án có thể trở thành tài liệu tham khảo cho nhữngngười làm công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập, những ai quan Cấu trúc của luận ánNgoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận án có nội dung chính gồm 4chương như sauChương 1 Tổng quan tình hình nghiên cứuChương 2 Truyện ngắn thế sự - đời tư trong sự vận động, pháttriển của văn học Việt Nam từ sau 1986Chương 3 Điểm nhìn trần thuật, tổ chức tình huống và kết cấutrong truyện ngắn thế sự - đời tư từ sau 1986Chương 4 Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật của truyện ngắn thếsự - đời tư từ sau 19867Chương 1TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨUTừ điển thuật ngữ văn học định nghĩa “Truyện ngắn là tác phẩm tự sựcỡ nhỏ. Nội dung của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đờisống đời tư, thế sự hay sử thi nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắnđược viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ” [94; hành cùng sự phát triển của xã hội, truyện ngắn là một trongnhững thể loại có lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp. Sự biến động của xãhội qua từng thời kì lịch sử phát triển của loài người kéo theo sự vận động vàbiến đổi của truyện ngắn thế giới nói chung, truyện ngắn Việt Nam nói đầu thế kỉ XX đến nay, truyện ngắn hiện đại Việt Nam có những thay đổitheo hướng tích cực để thích ứng với sự đổi thay của thời đại, đặc biệt từ thờikì sau 1986, nó đã chứng tỏ là một thể loại có khả năng dung hòa được vớinhịp sống hối hả và bao quát được những vấn đề đặt ra trong xã hội ngày Quan niệm chung về phương thức trần thuật trong truyệnngắn thế sự - đời Khái niệm truyện ngắn thế sự - đời tưDo tác động của hoàn cảnh chiến tranh, nội dung ưu tiên hàng đầu trongcác tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 là những biến cố lịch sửtrọng đại, nhiệm vụ của đời sống chính trị. Khuynh hướng sử thi vì thế nổi lênnhư một khuynh hướng tiêu biểu và duy nhất của văn học giai đoạn này. Sauđổi mới, văn xuôi từng bước thoát ra khỏi áp lực của “chủ nghĩa đề tài” bằngkinh nghiệm cá nhân đột phá vào các vùng hiện thực mới, chủ quan hóa cáchnhìn đối với những hiện thực vốn quen thuộc. Giá trị tác phẩm bây giờ khôngcòn phụ thuộc vào đề tài nữa mà do cách xử lí nghệ thuật của nhà văn quyếtđịnh. Tương ứng với các mảng hiện thực lớn cùng cảm hứng sáng tác của nhàvăn là những khuynh hướng sử thi, thế sự - đời tư và triết luận. Trong luận ánnày, chúng tôi đặc biệt dành sự quan tâm đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu truyện8ngắn thế sự - đời tư, lí giải những nguyên nhân hình thành, phát triển và sứchút mạnh mẽ của khuynh hướng này đối với các nhà sáng điển Tiếng Việt Hoàng Phê chủ biên định nghĩa thế sự là “việcđời”. Theo cách hiểu khái quát đó truyện ngắn thế sự là truyện ngắn viết vềcuộc sống đời thường, về thế thái nhân tình, về con người của thực truyện ngắn viết theo khuynh hướng này chú ý khẳng định giá trị thẩmmĩ của cái đời thường, khám phá mọi phức tạp, éo le và cả cái cao quý trênhành trình đi tìm sự sống và hạnh phúc của con người. Thế sự làm cho truyệnngắn giàu tính thời sự, mở rộng phạm vi phản ánh của hiện thực đời là một thể tài đã có truyền thống trong lịch sử văn học dân tộc. Từ cácbậc đại thi hào xưa như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến đãkhéo léo đưa vào trong sáng tác của mình bức tranh xã hội đương thời với sựthối nát của giai cấp thống trị và nỗi bi thương của những người dân nghèokhổ. Khuynh hướng này chỉ bị chững lại những năm 1945 - 1975 do văn họcdành sự ưu tiên cho những tác phẩm mang khuynh hướng sử thi, phù hợp vớihoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Sang đến giai đoạn 1975, cảm hứng này tiếptục được “phục sinh” và có sức lan tỏa mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Bàn về thếsự là bàn đến các nội dung đặc tả bức tranh hiện thực đời sống muôn mặthiện thực lớn - cuộc sống lao động kiến thiết và khôi phục đất nước; hiệnthực nhỏ - cuộc sống hàng ngày của mỗi con người đồng thời đặc sắc củanhững sáng tác viết theo khuynh hướng này còn ở chỗ nó phát hiện ra nhữngkhiếm khuyết trong cơ chế xã hội thời mở cửa, dóng lên hồi chuông cảnh báokịp thời qua những mảnh hiện thực bị cắt rời, nham tư hay đời sống cá nhân được hiểu là “cuộc sống của một cá nhân,đặc biệt được xem như toàn bộ sự lựa chọn cá nhân góp phần nhận dạng tínhcách một người” Theo Từ điển Wikipedia tiếng Việt. Truyện ngắn mang cảmhứng đời tư là truyện ngắn về số phận con người cá nhân. Nó hướng đến đờisống tinh thần phong phú, phức tạp của con người với những ham mê, dục9vọng thường tình, những khắc khoải về số phận, những cảm xúc gần gũi, đờithường. Những tác phẩm thuộc khuynh hướng này thường lấy đề tài trực tiếptừ đời sống hiện tại. Điểm tựa cho kết cấu không phải là các biến cố lịch sửmà là những chuyện hàng ngày, những quan hệ nhân sinh muôn thuở, nhữngứng xử có tính phổ biến hay đột biến của con người. Qua đó nhà văn săn tìmý thức về nhân cách. Con người cá nhân, có lẽ, đã xuất hiện trong các thiphẩm của các thi nhân từ rất lâu và có thể xem giai đoạn 1930 - 1945 với sựxuất hiện của phong trào Thơ mới đã đánh dấu sự thức tỉnh và ý thức về bảnthể mạnh mẽ nhất “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất - Không có chi bè bạnnối cùng ta” Xuân Diệu. Giai đoạn 1945 - 1975 do hoàn cảnh đặc thù conngười cá nhân chìm khuất nhường chỗ cho con người cộng đồng, lịch sử gọitên những người anh hùng mang những nét đẹp thời chiến trận, sử thi phủ lêncác sáng tác văn học tấm áo choàng của lịch sử, số phận của mỗi cá nhân nhưmột lẽ tất yếu, trùng khít với số phận của cộng đồng. Câu hỏi “ta vì ai?” vì thếđược ưu tiên hàng đầu. Khi cuộc sống trở về nhịp quay bình thường như nóphải có, văn học trở về với đời sống cá nhân đó là một quy luật tất yếu. Vănhọc sau 1975 lấy con người làm tâm điểm soi chiếu lịch sử. Con người từđiểm nhìn lí tưởng hóa được đặt vào điểm nhìn thế sự, đời tư. Dòng chảy đờithường ở thời đại ý thức cá nhân phát triển tạo cho con người một diện mạomới; phong phú, phức tạp, nhiều bí ẩn và nhà văn trong nỗ lực khám phá,chiếm lĩnh đời sống nhận ra mỗi cá thể là “một tiểu vũ trụ” không thể biết hết,không thể biết trước. Để con người hiện diện với các quan hệ nhân sinh cụthể, nhiều chiều, đó là cách xử lí phổ biến. Con người đời thường với nhữngẩn mật, khuất lấp hiện lên muôn màu muôn vẻ thực trạng nhân tính suy thoái,con người ham mê dục vọng tầm thường, con người chìm sâu vào hào quangquá khứ... nhưng tiêu biểu và nổi bật hơn cả chính là con người tìm được cáchkhẳng định giá trị tự thân của mình, nói khác đi là con người có giá trị tự được xem như là một trong những phát hiện mang tính nhân bản về con10người của các nhà văn giai đoạn những điều đã trình bày ở trên có thể hiểu truyện ngắn thế sự - đờitư là truyện ngắn viết về cuộc sống hàng ngày và số phận của mỗi con ngườicá nhân trong dòng chảy vô thường ấy. Sáng tác theo khuynh hướng thế sự đời tư, người cầm bút xem cuộc sống hàng ngày đang diễn ra là đối tượngsinh động và thú vị, số phận con người cá nhân là một đích đến của vănchương. Nói cách khác, nó chứng tỏ tinh thần nhân bản và ý thức dân chủ củanhà văn. Sự phát triển của khuynh hướng văn học này gắn với những thay đổitrong quan niệm về đối tượng, chức năng của văn chương, những thay đổitrong hứng thú sáng tác của nhà văn và tâm thế tiếp nhận của công tài này không phải đến văn học sau 1975 mới có mà nó đã manh nha hìnhthành thậm chí có thời kì phát triển đạt được nhiều thành tựu trước đó. Tuynhiên sự vận động của thể tài truyện ngắn này thăng giáng theo nhịp chuyểndời của lịch sử và để đến thời kì sau đổi mới, hội tụ đầy đủ các yếu tố thuậnlợi, nó một lần nữa được phục hồi và hứa hẹn sẽ có những thành tựu đángmong luận án, chúng tôi sử dụng khái niệm truyện ngắn thế sự - đời tưnhư một công cụ khảo sát diện mạo một thể loại văn học dưới góc nhìn thểtài. Cho nên, truyện ngắn thế sự - đời tư trước hết cũng mang những đặc trưngthi pháp của thể loại truyện ngắn, một thể loại tự sự hiện đại độc đáo. Thứnữa, nó khai thác thể tài thế sự - đời tư dưới một góc nhìn, cách tiếp cận riêng,mang hơi thở của lịch sử, thời đại, những tìm tòi, sáng tạo và tư tưởng riêngcủa nhà văn. Xét đến cùng, truyện ngắn thế sự - đời tư cũng là một loại hìnhdiễn ngôn tự sự gắn liền với thế giới quan, nhân sinh quan, sản phẩm của mộthình thái ý thức xã hội, lịch sử mà nền tàng là tinh thần dân chủ, nhân văn, đốithoại, hoài nghi. Thực tế đây không hẳn là một khái niệm mới mà chúng tôi đinghiên cứu một thể loại trong tiến trình lịch sử văn học, chịu ảnh hưởng trongcác tiêu chí phân chia của trường phái Pospelov. Với khái niệm công cụ này,11chúng tôi sẽ có dịp tìm hiểu kỹ hệ thống thi pháp của thể tài truyện ngắn nàyở nhiều cấp độ, phương diện như trần thuật, kết cấu, ngôn ngữ, để thấy nhữngthành tựu, đóng góp, cả hạn chế, nhược điểm, nhưng quan trọng hơn là sự vậnđộng, phát triển của thể tài trong lịch sử văn học và sự sáng tạo của các nhàvăn đổi Quan niệm chung về phương thức trần thuậtVới bất cứ tác phẩm nào thuộc loại hình tự sự truyện thì trần thuậtluôn là yếu tố then chốt, phương diện cơ bản. Theo đó, trần thuật thường đượchiểu là “việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sựkiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định”[94; Cho nên, có thể nói rằng trần thuật chính là việc tổ chức tácphẩm tự sự theo một điểm nhìn, cách nhìn nhất định. Trần thuật gắn liền vớitất cả các yếu tố trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm như bố cục, kết cấu,tổ chức không gian, thời gian, ngôn ngữ, giọng điệu. Nó là một hệ thống tổchức phức tạp “nhằm đưa hành động, lời nói của nhân vật vào đúng vị trí củanó để người đọc có thể lĩnh hội theo đúng ý định tác giả mối quan hệ giữacâu chuyện và cốt truyện” [94; trần thuật bao giờ cũng gắn với một người kể và điểm nhìn nhấtđịnh. Một tác phẩm tự sự có thể được kể theo người kể chuyện ở ngôi thứ ba,đứng ngoài quan sát, ngôi thứ hai hoặc ngôi thứ nhất, tự thuật. Điểm nhìn trầnthuật có thể thay đổi linh hoạt, đan cài, di chuyển, luân phiên trong một tácphẩm. Có nhiều cách trần thuật gắn với người trần thuật như trần thuật ở ngôithứ ba khách quan, trần thuật theo ngôi thứ nhất do một nhân vật trong tácphẩm đảm nhiệm, trần thuật bằng dòng ý thức, độc thoại nội tâm. Mỗi điểmnhìn này gắn với một tọa độ không gian, thời gian tạo thành trường nhìn, thểhiện cách nhìn, cách cảm, lập trường, tư tưởng của người trần thuật và của tácgiả. Mỗi sự thay đổi sẽ đem đến một sắc thái, bình diện miêu tả, tái hiện, haytái tạo thế giới khác nhau, đem đến cảm xúc, ý nghĩa đa tầng lớp. Ngoài ra,12cách thành phần trần thuật còn gồm không gian, thời gian, giọng điệu, ngônngữ, tiết tấu, nhịp điệu… Những yếu tố này tương tác, kết hợp hài hòa tạo nêncấu trúc trần thuật nghệ thuật trong tác phẩm tự sự. Tuy nhiên, hai yếu tố thenchốt liên quan đến phương thức trần thuật là người kể chuyện và điểm nhìntrần kể chuyện hiểu theo nghĩa đen chính là người kể câu chuyện chongười đọc nghe. Đây là nhân vật trung tâm của tự sự vì trên danh nghĩa toànbộ văn bản tự sự là sản phẩm của họ tạo ra. Bản thân người kể chuyện với cácyếu tố về chỗ đứng, điểm nhìn, cách thức kể lại câu chuyện sẽ tác động mạnhđến cấu trúc truyện kể cũng như mạch truyện trong tác phẩm. Người kểchuyện có vị trí, vai trò đặc biệt trong nghệ thuật tự sự. Nó chính là mộtphương diện quan trọng thể hiện chủ thể, bởi thái độ của người kể chuyện vớithế giới câu chuyện được kể thống nhất, hoặc ít nhất cũng thống nhất ở mộtphần, một phương diện nào đó với quan điểm, với lập trường tư tưởng của tácgiả. Vì vậy, mỗi loại hình diễn ngôn tự sự đều phải xây dựng một người kểchuyện đặc thù để kể câu chuyện mà chủ thể muốn gửi tới đối tượng tiếpnhận. từng nói “tự sự là cái có thể chuyển ngữ được mà không phảichịu một tổn hại cơ bản nào”, và vai trò chuyển ngữ ấy đặt lên người kểchuyện, điểm khác biệt cơ bản của tác phẩm tự sự với một bài thơ trữ tình haymột diễn ngôn triết hệ thống trần thuật của một diễn ngôn tự sự, mối liên hệ giữa cácyếu tố người kể chuyện - nhân vật - người nghe được thiết lập trong mộtchỉnh thể của chiến lược giao tiếp thể loại. Mối quan hệ hoàn chỉnh của bayếu tố đã đặt ra một vấn đề khác gắn bó chặt chẽ với người kể chuyện - vấnđề điểm nhìn. Mỗi nhân vật người kể chuyện bao giờ cũng gắn với một vị trí,một chỗ đứng nhất định trong không, thời gian, trong mô hình cấu trúc truyệnkể của thể loại, tạo nên những điểm nhìn khác nhau. Như vậy, điểm nhìn nghệthuật gắn liền với người kể chuyện. Nó thể hiện rõ vị trí của người kể với câu13chuyện được kể, từ đó xác định quyền năng của người kể chuyện trong tácphẩm. Do đó, điểm nhìn nghệ thuật gắn với cái nhìn của chủ thể, mối quantâm của anh ta với các vấn đề được kể, tạo ra cái nhìn nghệ thuật cho tácphẩm. Mỗi điểm nhìn thể hiện một vai, vị thế phát ngôn nào đó của chủ nghệ thuật tự sự, vấn đề điểm nhìn thuộc về các kỹ thuật, nguyên tắc tựsự. Nó là một trong những vấn đề then chốt của kết cấu tác phẩm, “cung cấpmột phương diện để người đọc nhìn sâu vào cấu tạo nghệ thuật và nhận ra đặcđiểm phong cách ở trong đó” [94; Tuy nhiên, nhìn từ hệ hình cấu trúcvăn bản tự sự, nghệ thuật kể chuyện có ba điểm nhìn điểm nhìn nhân vật,điểm nhìn người kể chuyện và điểm nhìn của người đọc. Khi truyện kể trởnên phức tạp hơn thì điểm nhìn thứ tư nảy sinh từ sự khác biệt rõ rệt giữangười kể chuyện và tác tác phẩm tự sự, điểm nhìn có ý nghĩa quan trọng, là yếu tố cơbản nhất tạo nên phương thức trần thuật của văn bản, là phương tiện để tổchức, kết cấu văn bản nghệ thuật. Do đó, dựa vào việc sử dụng điểm nhìn màngười ta phân chia ra nhiều phương thức tự sự/ trần thuật khác nhau. Theo Từđiển thuật ngữ văn học thì “phương thức trần thuật được cấu thành bởi sựphối hợp giữa tiêu cự trần thuật và cách kể” [94; Tiêu cự trần thuật cóthể chia thành hai loại trần thuật biết hết - điểm nhìn toàn tri vầ trần thuậttheo điểm nhìn nhân vật - điểm nhìn hạn tri. Còn tư cách kể gắn với người kểchuyện nên có thể chia thành người kể lộ diện kể theo ngôi thứ nhất hoặcngười kể ẩn tàng kể theo ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ hai.Có rất nhiều quan niệm chia phương thức trần thuật thành nhiều loạihình khác nhau. Song trên những điểm dị biệt vẫn có nét đại đồng là chủ yếudựa vào cách kể ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, gắn với cái nhìn toàn tri vàhạn tri, người kể lộ diện và ẩn tàng. Theo đó, nhìn chung, chúng ta có thể chiathành một số phương thức sau1. Kể theo ngôi thứ ba, khách quan, người kể biết hết, tiêu cự Kể theo ngôi thứ ba, người kể biết hết, có bình Kể theo ngôi thứ ba, chủ quan do vận dụng điểm nhìn của nhân vậttiêu cự bên trong.4. Kể theo ngôi thứ nhất của người kể bàng quan, đứng Kể theo ngôi thứ nhất có bình Kể theo ngôi thứ nhất mang điểm nhìn của người trong cuộc [94; thân sự phân chia thành các phương thức trần thuật trên đây đã thểhiện quá trình vận động, phát triển của thể loại tự sự trong lịch sử văn sát nghệ thuật tự sự trong tiến trình văn học chúng tôi nhận thấy phươngthức trần thuật theo ngôi thứ ba xuất hiện khá sớm, từ trong văn học dân gianvà trung đại, còn phương thức trần thuật theo ngôi thứ nhất, từ điểm nhìn bêntrong xuất hiện muộn hơn, bắt đầu từ các tác phẩm văn học hiện đại. Ngaytrong cùng một phương thức trần thuật theo ngôi thứ ba thì các tác phẩm tự sựdân gian, trung đại chủ yếu theo các phương thức 1 và 2, phương thức 3 đếnthời cận, hiện đại mới có. Bởi chỉ khi xuất hiện ý thức cá nhân mạnh mẽ, rõrệt, biểu hiện trực tiếp, cụ thể thì điểm nhìn bên trong mới được sử dụng trongnghệ thuật tự sự, để kể truyện đời và truyện của mình bằng góc nhìn, kinhnghiệm, tư tưởng của cá nhân. Khái niệm “tiêu cự” trong phương thức trầnthuật giúp khu biệt được đặc trưng của từng thời kỳ, giai đoạn văn học khácnhau có cùng một hình thức trần thuật ví dụ như việc trần thuật theo ngôi thứba trong văn học trung đại và hiện Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, đời tưTìm hiểu phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư, chúngtôi vẫn sử dụng khái niệm phương thức trần thuật và các hình thức phươngthức trần thuật của tự sự nói chung. Tuy nhiên, khảo sát một thể loại tự sự cỡnhỏ là truyện ngắn, gắn với thể tài thế sự - đời tư trong bối cảnh văn học ViệtNam những năm đổi mới từ sau 1986, chúng tôi xem xét những phương16thức trần thuật đặc trưng được sử dụng, lý giải cặn kẽ hơn về các phương thứctrần thuật đó. Từ đó, chúng tôi sẽ bước đầu nhận diện đặc trưng thể loại gắnvới thể tài sẽ chi phối đến hệ thống thi pháp, ngôn ngữ nghệ thuật, mà với tựsự thì quan trọng bậc nhất vẫn là trần thuật, sự kể, cách kể, chiến lược cạnh đó, chúng tôi cũng mở rộng khảo sát, tìm hiểu mọi yếu tố chiphối đến các phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư như tìnhhuống/ sự kiện, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu… để có cái nhìn toàn tri, đachiều, thấu đáo, đặt phương thức trần thuật trong chỉnh thể tổ chức nghệ thuậtcủa tác phẩm tự sự. Do đó, khái niệm phương thức trần thuật của truyện ngắnthế sự - đời tư được hiểu linh động, mang tính chất công cụ như một cách tiếpcận thể loại văn học này trong giai đoạn văn học đổi mới. Từ đó, chúng tôi đikhu biệt, chỉ ra những đặc điểm riêng, mang tính đặc thù trong nghệ thuật trầnthuật của truyện ngắn thế sự - đời tư với các kiểu thể tài khác như lịch sử, khubiệt trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư trong giai đoạn văn học đổi mớisau 1986 với truyện ngắn nói riêng và các thể loại tự sự nói trong trong giaiđoạn văn học sử thi thế, chúng tôi không định nghĩa duy danh hay đưa ra khái niệm thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư là yếu tố hạt nhân, đặctrưng nổi bật để chúng tôi tìm hiểu, khảo sát, diễn giải và tái hiện một phầndiện mạo của thể loại trong sự vận động của một giai đoạn văn học có nhiềubiến đổi mang tính bước ngoặt. Và việc đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu cácphương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư thời kỳ từ sau 1986 đếnnay cũng là một cách thay đổi tọa độ, điểm nhìn, phương pháp tiếp cận cáchiện tượng trong lịch sử văn học không đi theo lối mòn của lý thuyết phảnánh mà tìm hiểu bề sâu cấu trúc thể loại trong sự phát triển, thay đổi. Do đó,trần thuật là một cách thức đặc sắc, đặc thù và hữu dụng nhất để tái tạo hiệnthực trong các truyện ngắn, thể loại vẫn được coi là khái quát thế giới từ mộtlát cắt, khoảnh Tình hình nghiên cứu phương thức trần thuật trong văn xuôiViệt Nam từ sau 1986Vào những năm đầu của thế kỉ XX, phương thức trần thuật trong cáctác phẩm tự sự đã được giới nghiên cứu nước ta quan tâm và chú ý. Theo cáchhiểu truyền thống mà Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa, phươntình huống, kết cấu; ngôn ngữvà giọng điệu trần thức trần thuật là một vấn đề quan trọng của lý thuyết tự sự đãvà đang thu hút và nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong vàngoài nước. Ở đây, trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi xin được đềcập đến một vài công trình nghiên cứu của các lí thuyết gia nổi tiếng có ýnghĩa định hướng về mặt lí thuyết đối với công trình của chúng số nghiên cứu ngoài nướcTrước hết, ở nước ngoài, người có công đầu trong việc nghiên cứu nghệthuật tự sự phải kể đến là một nhà nghiên cứu người Anh. Trongtác phẩm Nghệ thuật văn xuôi, ông đã đưa ra bốn hình thức trần thuật cơ thức trần thuật thứ nhất có tên gọi “toát yếu toàn cảnh” có đặc điểm làsự xuất hiện của người trần thuật toàn tri, có quyền quyết định số phận cácnhân vật của mình. Hình thức trần thuật thứ hai có tên gọi là “người trầnthuật kịch hóa” có đặc điểm người trần thuật đứng ở ngôi thứ nhất xưng “tôi”kể lại câu chuyện mà mình được chứng kiến hoặc chính bản thân mình đã trảiqua. Hình thức trần thuật thứ ba có tên gọi “ý thức kịch hóa” cho phép miêutả đời sống nội tâm phức tạp, sự giao tranh những xúc cảm tâm lí của nhânvật. Cuối cùng là hình thức trần thuật thứ tư có tên “kịch thực thụ” gần vớitrình diễn sân khấu bởi vì ở đây trần thuật được đưa ra dưới dạng một cảnhdiễn trên sân khấu, người đọc chỉ có thể thấy được nhân dạng và các cuộc đốithoại của nhân vật mà không hiểu gì về đời sống nội tâm. Và trong quan niệmcủa mình, coi hình thức trần thuật này là hình thức hoàn hảo trong tác phẩm Điểm nhìn trong tiểu thuyết đã đưa ra mộtsự phân loại tương đối chi tiết về người kể chuyện. Thứ nhất là hình thứcngười kể chuyện “toàn năng biên tập”, người kể chuyện xuất hiện trong vai“nhà xuất bản - nhà biên tập”, họ biết tất cả và có khả năng xâm nhập vào câuchuyện dưới dạng những trao đổi về cuộc sống, phong tục và đạo đức. Thứhai là hình thức người kể chuyện “toàn năng trung tính”, không có sự canthiệp trực tiếp của người kể chuyện. Thứ ba là hình thức trần thuật “tôi lànhân chứng”, người kể chuyện kể từ ngôi thứ nhất, là một nhân vật trongtruyện nhưng không tham gia vào câu chuyện mà chỉ hiểu biết ít ỏi về cácnhân vật. Hình thức trần thuật thứ tư là hình thức “tôi là vai chính”, người kểchuyện là nhân vật chính trong câu chuyện. Thứ năm là hình thức trần thuật“toàn năng cục bộ đa bội”, người kể chuyện đứng bên ngoài câu chuyện, căncứ vào điểm nhìn của nhiều nhân vật để kể chuyện. Thứ sáu là hình thức trầnthuật “toàn năng cục bộ đơn bội”, người kể chuyện đứng bên ngoài và dựavào điểm nhìn của một nhân vật trong truyện để kể. Thứ bảy là hình thức trầnthuật theo “mô thức kịch” và cuối cùng là trần thuật theo kiểu “camera”. Ở20hai hình thức sau này hầu như người kể chuyện chỉ khách quan ghi lại các sựviệc, hiện tượng mà không tỏ bất cứ một thái độ chủ quan một nhà nghiên cứu Liên Xô trong cuốn Dẫn luận nghiêncứu văn học cũng bàn về vị trí người trần thuật trong nghệ thuật trần thuật đãphát biểu “Trần thuật tự sự bao giờ cũng được tiến hành từ phía một ngườinào đó. Trong sử thi, tiểu thuyết, cổ tích, truyện ngắn trực tiếp hay gián tiếpđều có người trần thuật” [136; Theo Pospelov thì “người trần thuật làloại người môi giới các hiện tượng được miêu tả và người nghe hoặc ngườiđọc là người chứng kiến và người cắt nghĩa các sự việc xảy ra”. Ở đây,Pospelov đã đặc biệt quan tâm đến vai trò của người kể chuyện trong nghệthuật trần thuật. Ông cũng cho rằng có hai kiểu người trần thuật phổ biến“Hình thức thứ nhất của miêu tả tự sự là trần thuật từ ngôi thứ ba không nhânvật hóa mà đằng sau là tác giả. Nhưng người trần thuật cũng hoàn toàn có thểxuất hiện trong tác phẩm dưới hình thức một cái “tôi” nào đó” [136; số nghiên cứu trong nướcBên cạnh các nhà nghiên cứu nước ngoài, các nhà nghiên cứu trongnước cũng dành sự quan tâm đến nghệ thuật trần thuật . Trong cuốn Tự sự họctập 1, Lại Nguyên Ân với bài viết “Về việc mở ra môn Trần thuật học trongngành nghiên cứu văn học ở Việt Nam” đã đồng nhất trần thuật học với tự sựhọc và cho rằng “Thực chất hoạt động trần thuật là kể, là thuật; cái đượcthuật, được kể, trong tác phẩm văn học tự sự là chuyện” [141; và“Trần thuật học hiện đại quan niệm tác phẩm nghệ thuật như một hiện tượnggiao tiếp nghệ thuật” [141; Đình Sử trong Từ điển thuật ngữ văn học đã đưa ra ý kiến khá hệthống và sâu sắc về vấn đề này. Nhà nghiên cứu cho rằng “Người trần thuậtlà một nhân vật hư cấu hoặc có thật, mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữcủa anh ta tạo thành” [94; Ông chỉ ra năm chức năng của người trầnthuật “1 chức năng kể chuyện, trần thuật; 2 chức năng truyền đạt, đóng vai21

phương thức trần thuật